Mật thất của Quốc vương trống trơn, duy có những cỗ “quan tài đá” hoa cương Aswan nặng 100 tấn thần bí, bóng loáng, tĩnh lặng nằm ở đó. Nếu không chứa xác ướp, vậy công dụng của nó là gì?
Nền văn minh Ai Cập cổ đại luôn tràn đầy màu sắc thần bí, nguồn gốc và công dụng của Kim Tự Tháp luôn là một bí ẩn khó lý giải. Có thuyết cho rằng ba Kim Tự Tháp vĩ đại nổi tiếng nhất ở Ai Cập không phải được xây dựng với mục đích làm lăng mộ.
Nếu đó không là lăng mộ, thì những cỗ quan tài đá trong mật thất Quốc vương của Kim tự tháp Khufu được dùng để làm gì? Xin mời các bạn cùng khám phá trong bài viết dưới đây.
Phát hiện chấn động của các nhà khảo cổ
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy 24 chiếc quan tài màu đen trong hệ thống đường hầm thuộc Đền thờ Saqqara, ở phía tây bắc kim tự tháp Djoser ở Saqqara, nghĩa địa gần thành phố Memphis thuộc vùng Hạ Ai Cập.
Mỗi chiếc quan tài đá đều được chế tác hết sức vuông vức như được cắt bằng tia laze, điều đó khiến các nhà khoa học không thể hiểu nổi bằng cách nào hàng ngàn năm trước, người Ai Cập cổ đại chế tác được nó? Đối với các nhà nghiên cứu, mục đích ra đời và chức năng của những chiếc quan tài đá này là điều bí ẩn.
Tuy nhiên, một người phụ nữ đã bật mí câu trả lời trong cuốn tự truyện của mình. Câu chuyện của bà nghe như thần thoại, tuy nhiên không phải không có cơ sở. Một nhà nghiên cứu luân hồi đã nghiêm túc nhìn nhận câu chuyện của bà và mong rằng những người khác có thể lắng tâm lại để xem qua nó, dẫu chỉ một lần.
Quan tài đá và hành trình luân hồi 3.000 năm
Đó là câu chuyện thần kỳ của bà Erzsébet Haich đến từ Hungary, một trong những cô giáo dạy Yoga nổi tiếng nhất châu Âu thế kỷ XX. Bà chia sẻ, theo những gì bà biết thì cỗ quan tài đá được dùng để thử nghiệm những người tu luyện. 3.000 năm trước, bà cũng đã từng nằm trong một cỗ quan tài đá như vậy.
Bà kể, thời điểm đó, bà là một công chúa xinh đẹp. Vào sinh nhật lần thứ 16, cha của bà là Pharaoh hỏi bà muốn món quà gì. Bà nói rằng muốn “nhập môn”.
Ai Cập vào thời cổ đại, mọi người đều tôn sùng tu luyện. Những người trẻ tuổi sẽ rất tự hào nếu họ có thể làm thầy tế ty. Bởi các thầy tế có khả năng câu thông với các vị thần.
Công năng của các vị Tế ty
Chiếc chày cứu sinh trên tay họ có sức mạnh có thể khiến người chết sống lại. Những Đại tế ty thậm chí có thể sử dụng năng lượng của Hòm bia giao ước (hay còn gọi là Hòm Chứng Ngôn, là một chiếc rương bằng gỗ nạm vàng chứa hai tấm bảng khắc “mười điều răn”, xuất hiện lần đầu trong “Sách xuất hành” và được coi như một trong những bảo vật của các tín ngưỡng Abram), để tạo ra gió, mưa, sấm và sét để điều khiển thời tiết.
“Nhập môn” là khảo nghiệm cuối cùng trước khi trở thành một tế ty. Người ta sẽ bị nhốt trong quan tài đá của kim tự tháp để trải qua các ảo tượng khác nhau, và có 7 tầng khảo nghiệm. Chỉ những người có tín niệm kiên định và sẵn sàng vứt bỏ bản thân mới có thể nhìn thấu ảo tượng và vượt qua khảo nghiệm.
Nếu một người bị lạc trong ảo tượng không thể thoát ra, người đó sẽ chết trong quan tài, linh hồn sẽ nhập vào luân hồi. Ảo ảnh sẽ thành hiện thực, trở thành con đường nhân sinh mà người đó trải qua trong kiếp luân hồi.
Do đó có thể nói khảo nghiệm “nhập môn” này rất đáng sợ. Pharaoh, người yêu thương con gái mình sâu sắc, đương nhiên không đồng ý. Tuy nhiên, công chúa nhỏ đã hạ quyết tâm và quay sang thỉnh cầu vị đại tế ty. Sau nhiều lần như vậy, đại tế ty miễn cưỡng đồng ý.
Vào ngày kiểm tra, mọi người xung quanh bà đều khóc như cuộc chia tay sinh ly tử biệt. Borgham, người con nuôi mà bà vừa cứu được ở bờ biển cũng khóc một cách vô cùng thương tâm. Nhưng bà vui vẻ nằm vào trong quan tài.
Nhập môn bằng cách nằm vào trong quan tài đá
Vì không rành thế sự nên tâm thái rất thuần tịnh, công chúa nhỏ nhanh chóng vượt qua thử thách về sự sợ hãi và chống lại sự cám giỗ của những món ăn ngon.
Một người đàn ông xuất hiện trong bóng tối, mặt mũi mơ hồ không rõ ràng, nhưng giọng nói của anh ta thật khó quên. Anh ấy nói rằng đã tìm bà từ rất lâu, họ đã thất lạc từ Vườn Địa Đàng và là một nửa của nhau. “Chúng ta hãy hòa hợp hai thành một dưới sự chúc phúc của thần, em chính là cô dâu duy nhất trong thiên đàng của anh”.
Nhưng công chúa từ chối lời mời của anh ta, và người đàn ông biến mất trong màn sương dày đặc.
Chỉ trong nháy mắt, bà thấy mình là một người phụ nữ già nua và mệt mỏi, hết lần này đến lần khác hỏi mọi người: “Anh có nhìn thấy con tôi ở đâu không?”.
Trong nháy mắt, bà lại thấy mình đang mặc một bộ váy kỳ lạ, và hoàn cảnh xung quanh cũng trở nên rất xa lạ. Xe trên phố có thể tự chạy, thuyền trên sông bốc khói đen kịt, thỉnh thoảng có những con chim sắt khổng lồ bay ngang trời.
Bỗng một thanh niên đi tới, đó chẳng phải là con nuôi của bà tên Borgham sao? Thằng bé lớn nhanh như vậy từ khi nào? Điều khiến bà cảm thấy khó xử hơn nữa là người bạn thân nhất của bà trong đền thờ, sư huynh Imma lại gọi bà là “mẹ”.
Tista, quan chỉ huy sứ của Pharaoh trở thành người cha già tóc bạc của bà, bà cũng có chồng, đó chính là người đàn ông với bóng dáng mờ ảo trong màn sương dày đặc.
Công chúa nhỏ lắc đầu tự nhủ, đây là ảo giác, phải cố gắng vượt qua quan này thôi. Nhưng mọi thứ đều rất thật. Họ đang trải qua một cuộc chiến khủng khiếp: cái chết xảy ra hàng ngày, đói và hoảng loạn luôn song hành với nhau, đôi khi phải liều mình để bảo vệ mọi người. Cả gia đình trải qua bao khó khăn gian khổ, cuối cùng cũng chịu đựng được tới khi chiến tranh kết thúc.
Đêm hôm đó, khi bà quỳ trước giường con trai và cầu nguyện, hy vọng Chúa sẽ giúp mình tìm lại tín ngưỡng đã thất lạc trong chiến tranh, đột nhiên xung quanh bừng sáng, và một chiếc thang với bảy bậc xuất hiện. Bà lại trải qua hai khảo nghiệm cuối cùng và leo lên được đỉnh của chiếc thang, phát hiện mình và vũ trụ hợp thành một thể, loại cảm giác đó vô cùng kỳ diệu.
Đột nhiên, giọng nói của vị thượng tế gọi bà từ xa và kéo bà trở lại mặt đất. Hóa ra bà đã thông qua khảo nghiệm. Nhưng vị đại tế ty dặn dò bà không được lơ là thiếu cảnh giác.
Nếu bà mắc lỗi và rơi xuống, điều đó tương đương với việc khảo nghiệm thất bại. Bà sẽ phải trải qua mọi thứ ở thế giới tưởng tượng trong luân hồi. “Muốn nhập môn lại là việc càng khó hơn. Hãy ghi nhớ!”, ông nghiêm túc nói.
Cuộc gặp gỡ với người đàn ông tóc đỏ
Cô công chúa nhỏ không quá để bụng về điều đó, cô vui vẻ trở thành một nữ tế ty, và làm công việc trả lời giải thích các câu hỏi trong phòng tiếp tân của ngôi đền. Đồng thời, vì mẹ mất sớm nên cô thay bà ấy chăm sóc cha, cô cùng Pharaoh tham gia các việc công vụ.
Hôm đó, họ đã tiếp đón một xứ đoàn nước ngoài. Khi một người đàn ông tóc đỏ mở miệng nói, bà sợ đến ngây người. Bởi vì đó là giọng nói của người đàn ông mà bà nghe thấy trong quan tài. Tuy nhiên, người này trong thực tế lại kiêu ngạo và vô lý với bà, khiến bà rất khó chịu.
Vào buổi tối, người đàn ông tóc đỏ đến phòng tiếp tân của bà để hỏi ý kiến. Dù lúc nào gặp nhau họ cũng cãi vã, nhưng điều đó không ngăn cản được việc ngày nào anh ta cũng đến.
Lâu dần, công chúa nhỏ đã quen với sự xuất hiện của anh ta, bắt đầu thi thoảng nghĩ tới anh ta, còn cho anh ta dùng xe sư tử kéo của mình. Cô khoe khoang nói với anh ta rằng, con sư tử của cô chỉ có thể được điều khiển bằng pháp lực thần thông.
Rất nhanh sau đó đoàn khách phải trở về. Khi người đàn ông đến nói lời từ biệt cuối cùng, anh nói mình đã trở thành nô lệ của cô, không biết sau này nên làm thế nào mới phải. Công chúa nhỏ khi đó mới phát hiện, trong tâm mình cũng như vậy. Vào khoảnh khắc đó, cô nhìn thấy giữa hai người nhen nhóm bùng cháy một ngọn lửa dần lan khắp căn phòng, nó cũng làm mơ hồ ý thức của cô.
Cho tới khi thanh tỉnh trở lại, công chúa cảm giác một việc gì đó không nên xảy ra đã xảy ra. Cô lảo đảo đi ra khỏi phòng, phát hiện sư huynh của mình đang đứng dựa vào tường trong bóng tối, nhìn cô với ánh mắt không thể tin tưởng. Sau đó quay lưng bỏ đi một cách lặng lẽ.
Rất nhanh, cô phát hiện pháp lực thần thông của mình đã biến mất. Cô đi tìm vị Đại tế ty mong nhận được sự giúp đỡ, nhưng ông ấy không thể giúp gì được.
Sư huynh Imma cũng không thể giúp cô, vì hôm đó anh đã rời khỏi ngôi đền thờ. Một vị tế ty khác nói với cô rằng, Imma mất đi khả năng tự khống chế bản thân, vì tín tâm tu luyện của anh không giao phó trong tay thần, mà ở một người phụ nữ. Imma vô cùng thất vọng nên không muốn sống trong đền nữa.
Công chúa nhỏ tội nghiệp bước vào vườn sư tử với trái tim như tro tàn, cô quên mình đã mất đi pháp lực tâm linh và không thể điều khiển được sư tử.
Những con sư tử lao vào công chúa như với người xa lạ, cô quay lưng bỏ chạy. Đó là ký ức cuối cùng trong cuộc đời cô ở kiếp đó, đồng thời cũng là cơn ác mộng thời thơ ấu lớn nhất trong cuộc đời bà Erzsébet Haich.
Luân hồi diễn ra giống như trong quan tài đá đen
Luân hồi 3.000 năm sau, trong kiếp này, người đàn ông tóc đỏ trở thành chồng của bà, ông đối với bà rất dịu dàng ân cần, tình cảm hai người rất tốt. Tuy nhiên trong kiếp trước đó, ông lại là một người bội tình bạc nghĩa.
Câu chuyện là thế này, khi đó, bà làm công việc dọn dẹp trong một trang viên, mỗi ngày đều phải lau dọn sàn nhà. Ngày nọ, trong trang viên xuất hiện một chàng thanh niên anh tuấn đẹp trai, bà thích ông ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Tối đó, ông ta đã vào phòng bà, từ đó thường lấy danh nghĩa đi săn bắn để đến thăm bà. Chẳng bao lâu sau họ có con, là một bé gái xinh đẹp. Tuy niên, chàng thanh niên không chịu thừa nhận mình là cha đứa trẻ, vì càng không muốn chịu trách nhiệm nên anh ta đã biến mất.
Bà mang con đi tìm ông ta, bắt đầu kiếp sống lang thang. Sau đó con gái vì không chịu đựng được kiếp sống lang bạt nên đã bỏ bà mà đi. Bà bắt đầu đi tìm con trong điên dại, giống như bản thân mình trong ảo ảnh năm đó, vừa đi vừa hỏi mọi người: “Ông bà có nhìn thấy con tôi không?”
Là một người ăn xin
Nhiều năm qua đi, đứa trẻ không quay trở lại tìm bà, lòng bà đau đớn nguội lạnh, bà kiếm ăn trên phố bằng nghề ăn mày.
Vào một ngày, theo thường lệ bà tới ăn xin ở bậc thang một thành phố náo nhiệt, một ông lão ăn xin mặt mày nhăn nhó lê từng bước chân nặng nề tới bậc thềm của thành phố, ngồi xuống bậc thang: “Đây là địa bàn của tôi”.
Bà khó chịu, ánh mắt sắc như dao lạnh lùng liếc nhìn sang; đối phương xấu hổ đứng dậy định bỏ đi. Tuy nhiên ngay lúc ánh mắt hai người chạm nhau, họ nhận ra là người quen. Hóa ra lão ăn mày kia chính là chàng thanh niên đẹp trai năm nọ. Bà khẽ thở một hơi dài, tựa như tâm nguyện cuộc đời đã hoàn thành, bà nhắm mắt và đột ngột qua đời.
Hôm đó, khi bà hồi tưởng và kể lại câu chuyện kiếp sống đó cho chồng nghe. Ông cũng bất ngờ run rẩy nói: “Đợi đã! Để anh kể cho hết câu chuyện. Vào thời điểm đó, ông sống xa hoa sung sướng phung phí vô độ, sớm mất đi tất cả, bị buộc phải rời bỏ lãnh địa của mình và lang thang khắp nơi.
Sau đó, ông quay lại tìm mẹ con bà, nhưng tiếc là hai người đã bỏ đi mất. Dần dần, bạn bè cũng không muốn tiếp tế giúp đỡ, ông xin đi làm nhưng bị người ta chê không nhận, cuối cùng trở thành một người ăn xin”, người chồng cảm thán nói.
Có lẽ kiếp này ông đã học được bài học của kiếp trước, từ khi còn là sinh viên, ông đã không thích cuộc sống xa hoa, chỉ biết chuyên tâm vào việc học. Sau đó cũng vô cùng chuyên cần chăm chỉ trong công việc, hết lòng chăm lo cho gia đình, hoàn toàn khác với kiếp trước.
Câu chuyện luân hồi của chàng trai Imma
Có câu nói rằng: “bất thị nhất gia nhân, bất tiến nhất gia môn” nghĩa là: Không phải người một nhà không đi chung một cửa, Gedeon Haich, con trai của Erzsébet Haich cũng có thể nhớ rõ tiền kiếp của mình.
Khi lên bốn năm tuổi, cậu đã thích vẽ người, luôn thích tô họ thành màu nâu và đen. Năm sáu bảy tuổi, cậu bắt đầu nói mình có vợ và con. Cậu nói “họ đều là người da đen và để nửa thân trần”. Họ sống trong rừng, săn bắn bằng cung tên và sống trong những túp lều có mái nhọn, họ sử dụng thuyền độc mộc để di chuyển trên sông.
Vào thời điểm đó, cậu chưa bao giờ đọc bất kỳ cuốn sách nào về châu Phi, nhưng đã vẽ nên cuộc sống của những người da đen bản địa châu Phi một cách sống động.
Sau khi gia đình mua một chiếc thuyền, cậu có thể chèo mà không cần ai dạy. Năm 15 tuổi, bố mẹ mua cho cậu một cái trống lớn. Dù không học cậu cũng có thể chơi rất hay, vừa chơi trống vừa khóc, và nói rằng đó là bản nhạc của quê hương mình.
Trường hợp của Gedeon sau đó đã được tiến sĩ Ian Stevenson, chuyên gia nghiên cứu luân hồi nổi tiếng đưa vào cuốn sách của mình. Vì là luân hồi chuyển sinh giữa các chủng tộc khác nhau, hơn nữa khoảng cách rất xa, lại là trường hợp đặc biệt nên thường được nhắc tới.
Sau đó, trong một lần dùng khả năng ngoại cảm, Erzsébet thấy rằng con trai mình hóa ra là Imma, sư huynh năm xưa của bà. Sau khi Imma bỏ trốn, ông đến bộ tộc của những người da đen bản địa. Ông đã chữa bệnh cho họ, đồng thời dạy họ kiến thức và văn hóa. Người bản xứ giống như một đứa trẻ vô cùng tôn thờ, sùng bái ông. Dần dần ông trở nên yêu mến bộ tộc này, kết hôn, sinh con và sống ở đây.
Sau đó ông luôn đầu thai chuyển sinh ở đây, suýt chút nữa đã quên mất mình là ai, nhưng cuối cùng duyên phận lại đưa ông trở lại với cô công chúa nhỏ mà ông đã luôn tâm tâm niệm niệm muốn ở cạnh.
Trong kiếp này, người con nuôi Borgham của Erzsébet sinh ra ở Ấn Độ và trở thành một bậc thầy yoga. Khi đến du lịch ở Hungary, vừa gặp Erzsébet hai người đã cảm thấy như thân quen từ lâu. Hai người hợp tác thành lập một trường dạy yoga để dạy thế giới phương pháp trầm tư, mặc tưởng của người Ai Cập cổ đại. Họ có rất nhiều tín đồ, mọi người gọi họ là những người thầy tâm linh.
Trải qua thế chiến thứ II
Sau đó, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, bà vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng những gì bà trải qua trong chiến tranh chính là ảo ảnh cuối cùng trong cỗ quan tài, bà không khỏi dâng trào cảm xúc bùi ngùi trong lòng. Không biết rằng kiếp này có thể hồi phục lại ký ức có phải đồng nghĩa với việc bà đã lại vượt qua cuộc khảo nghiệm và nhập môn rồi?
Sau chiến tranh, bà đã biên soạn một cuốn tự truyện tên gọi “Nhập môn” (Initiation) kể lại toàn bộ hành trình luân hồi trong quá khứ và kiếp sống hiện tại của mình.
Trong hồi ký, bà có viết rằng: “Đôi khi tôi thực sự tự hỏi liệu mình có còn đang nằm trong quan tài, trải qua bài kiểm tra nhập môn hay không? Ảo cảnh hay hiện thực, đâu mới là thời điểm hiện tại? 3.000 năm trước hay 3.000 năm sau, đâu mới là con người thật của tôi?”.
Trên đây là câu chuyện luân hồi đã xảy ra với bà Erzsébet Haich, các bạn nghĩ sao về câu chuyện thần bí này? Cả lời giải thích về công dụng của chiếc quan tài bằng đá đen, liệu nó có là sự thật?
Theo The Epoch Times