Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một nhân vật hoàn toàn có thật trong lịch sử. Ngày nay tại Ấn Độ và Nepal vẫn còn các di tích nơi Đức Phật sinh ra, nơi Ngài thành đạo, nơi Ngài chuyển bánh xe Pháp đầu tiên và nơi Ngài nhập Niết Bàn.
- Lời tiên tri của Đức Phật Thích Ca 2500 năm trước đang ứng nghiệm
- Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca và trưởng gánh hát
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: ‘Không biết không có tội có đúng không?’
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được tiên đoán sẽ thành một bậc Đại Giác từ trước khi được sinh
Đức Phật Thích Ca vốn là một vị Thái tử, con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng hậu Mahã Maya. Thuở nhỏ ngài tên là Siddhartha (Sỹ-Đạt-Ta), họ là Gotama. Tương truyền, trước khi mang thai Đức Phật, hoàng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà; vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng; từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà.
Lúc đó bà cảm thấy thân tâm an lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà la môn đến giải mộng. Các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một đại đế hoặc một “thánh nhân tiếng tăm lừng lẫy“.
Khi Thái tử mới chào đời, vua Tịnh Phạn có mời nhiều vị tiên tri đến xem tướng cho Thái tử. Có 108 vị Bà-La-Môn tới thăm Thái tử. Trong đó có ngài Kiều Trần Như giỏi về tướng số. Vị này tiên đoán rằng: “Thái tử sau này sẽ đi tu và trở thành Bậc Đại Giác”. Đạo sĩ A-Tư-Đà tu trên núi Hy-Mã-Lạp-Sơn xuống thăm Thái tử cũng nói rằng: “Sau này nếu Thái tử ở trong hoàng cung thì sẽ trở thành một vị Đại đế lỗi lạc; nếu như Thái tử bỏ nhà đi tu thì Ngài sẽ trở thành một bậc Đại giác.”
Vua cha phiền lòng vì muốn con kế nghiệp dòng họ Thích Ca
Vua Tịnh Phạn nghe các đạo sĩ đoán vận mệnh của Thái Tử như thế thì rất phiền lòng. Nhà vua chỉ muốn rèn luyện Thái Tử trở thành một người tài giỏi; lên ngôi Vua nối nghiệp dòng tộc Thích Ca nổi danh trong thiên hạ. Để đạt được mục đích của mình, nhà vua cho mời tất cả những vị Thầy giỏi ở trong nước vào hoàng cung rèn luyện Thái tử về văn chương, nghệ thuật và võ nghệ. Thái tử học môn gì cũng giỏi.
Vua Tịnh Phạn rất hài lòng, tuy nhiên nhà vua vẫn lo lắng có một ngày Thái tử sẽ ra đi như những lời tiên đoán của các vị đạo sĩ Bà-La-Môn. Nhằm ngăn chặn điều đó, nhà vua tạo điều kiện để Thái tử tận hưởng những thú vui trong cung điện và ra lệnh cấm mọi người không để Thái tử tiếp xúc với môi trường bên ngoài xã hội; vì sợ nếu Ngài thấy cảnh khổ của dân chúng thì sẽ quyết định đi tu.
Năm Thái tử 16 tuổi, vua Tịnh Phạn cưới công chúa Gia-du-đà-la (Yosõdharã) cho Thái tử với chủ ý khiến cho Thái tử vì tình ân ái yêu thương Công chúa xinh đẹp mà không nghĩ đến vấn đề xuất gia.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngộ ra Sinh, Lão, Bệnh, Tử
Năm 29 tuổi, Thái tử có đứa con đầu lòng đặt tên là La-Hầu-La (Rahula). Thái tử xin vua Tịnh Phạn dạo chơi ngoài thành. Vua Tịnh Phạn nghĩ rằng Thái tử bây giờ đã có vợ có con, đời sống gia đình hạnh phúc; cũng như sự giàu sang phú quý cùng chiếc ngai vàng quyền lực đang chờ… sẽ giữ chân Thái tử vững chắc hơn nên Vua bằng lòng. Tuy thế đức vua cũng ra lệnh: “Những con đường mà Thái tử đi qua phải trang hoàng cho đẹp; và chỉ những người khỏe mạnh, giàu có mới được ra để mà đón chào tung hô Thái tử”.
Sau những lần xuất cung ra ngoài thành thì Thái Tử ngộ ra bốn sự kiện Sinh, Lão, Bệnh, Tử là quy luật khách quan không ai tránh khỏi; nó như bốn ngọn núi Tu Di khổng lồ đang từ từ di động về phía con người nhỏ bé đang đứng ở giữa.
Từ nhỏ tính tình Thái tử rất trầm lặng, thích sống một mình. Bây giờ, đối đầu với ba sự kiện Lão, Bệnh, Tử càng khiến cho Thái tử không thiết tha gì với đời sống xa hoa dục lạc giả dối nữa; mà lúc nào cũng trầm ngâm quán chiếu về các sự kiện Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Ngài nghĩ: “Sau cái chết thì con người đi về đâu? Làm sao để thoát khỏi bốn ngọn núi kinh khủng này?”
Từ bỏ cung vàng điện ngọc, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quyết tâm đi tìm Đạo
Ngài đi hỏi khắp nơi nhưng không ai có thể cho ngài một câu trả lời thích đáng. Vì vậy ngài đã quyết chí rời bỏ cung vàng điện ngọc ra đi tầm đạo. Một đêm kia Thái tử cùng Xa Nặc là người hầu chăm sóc ngựa cho Thái tử, cưỡi ngựa Kiền Trắc phóng như bay ra khỏi hoàng thành.
Đến bờ sông Anoma, Thái Tử thay đổi hoàng bào với Xa-Nặc; tự tay cầm kiếm cắt tóc; cởi tất cả nữ trang đeo trên người giao cho Xa Nặc; bảo đem về dâng cho Di mẫu và nhắn lại với Cha Mẹ, Vợ Con của Ngài là khi nào Ngài chứng ngộ, thoát khỏi dòng Sinh, Lão, Bệnh, Tử mới trở về.
Vị thầy đầu tiên
Vị thầy đầu tiên mà thái tử tìm đến để học đạo là đạo sĩ Àlàra Kàlama. Vị Thầy này dạy thiền Yoga, đến tầng thứ 3 là Vô Sở Hữu xứ định. Chỉ trong một thời gian ngắn tu tập, thái tử đã nhập vào cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Định. Thái tử đến trình với Thầy của mình và hỏi Thầy còn pháp gì dạy Ngài nữa hay không?
Đạo sĩ Àlkarà Kàlama rất hoan hỷ trước sự thành đạt của Ngài, nhưng rất tiếc là ông không còn pháp gì cao hơn để dạy thêm cho Ngài nữa nên mời Ngài lưu lại để cùng hướng dẫn đồ chúng với ông; nhưng Ngài đã chối từ vì chưa đạt được những gì Ngài tìm cầu. Do đó Ngài xin phép và từ giã Thầy ra đi.
Vị thầy thứ hai
Thái tử tìm đến vị thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Ràmaputta. Vị này dạy tầng thứ tư của thiền Yoga là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Cũng trong thời gian ngắn thái tử đã thể nhập vào cảnh giới của tầng định “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ”. Tuy Ngài chế ngự được tâm mình bằng Ý thức, nhưng mà cũng không thấy có Thượng trí; Niết Bàn mới là mục tiêu của Ngài. Vì thế một lần nữa Thái tử quyết định từ tạ Thầy ra đi, mặc dù vị Thầy thứ hai này cũng đã mời ngài ở lại cùng hướng dẫn đồ chúng.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bước vào con đường tu Khổ hạnh
Thái tử rời vị thầy thứ hai, tìm đến núi rừng Dungsiri. Đây là khu rừng rậm đằng xa nhìn thấy có nhiều cây xanh mát mẻ; nhưng đến gần thì muỗi vây kín, cỏ gai lan tràn trên mặt đất. Nơi đây hiện có nhiều tu sĩ thực hành các lối tu khổ hạnh. Thái tử quanh quẩn trong khu rừng già bên cạnh làng Uruvela này chưa biết phải tu tập ra làm sao thì gặp lại đạo sĩ Kiều Trần Như (người từng coi tướng số cho thái tử) và 4 người khác. Hiện các vị này cũng đang tu pháp môn “Khổ Hạnh”. Thái tử quyết định cùng tu pháp môn ‘khổ hạnh’ với 5 anh em Kiều Trần Như.
Trong kinh kể lại rằng Đức Phật là người đã tu khổ hạnh đệ nhất; nghĩa là tự Ngài hành xác mình khốc liệt nhất. Ngài đi sâu vào rừng sống độc cư một mình. Có lúc không mặc quần áo, dùng lá cây tạm che thân. Đêm lấy gai làm giường. Mùa đông tuyết rơi, ngủ ngoài trời giá lạnh. Mùa hè nằm ngoài nơi nắng cháy hoặc nằm trong bãi tha ma. Có khi mấy tháng không tắm; nhưng khi trời lạnh cắt da thì một đêm xuống sông tắm ba bốn lần. Râu tóc thì không nhổ không cạo. Mỗi ngày chỉ ăn 1 hoặc 2 hạt mè; chỉ uống vài giọt nước sương v.v… Rồi có lúc ngài tuyệt thực, bỏ cả ăn uống nằm thoi thóp trong rừng sâu…
Bước trên con đường Trung Đạo
Một lần nọ, ngài lần mò xuống sông tắm thì ngất xỉu nằm bất động. May có nàng mục nữ Sujàta chăn cừu đi ngang qua; thấy thế liền mở túi da đựng sữa rót vào miệng cứu sống Ngài. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, Ngài nghe văng vẳng bên tai có tiếng đàn du dương; tiết tấu thanh tao dìu dặt mỗi lúc một gần, khiến Ngài hồi tỉnh. Tỉnh ra, mới biết đó là tiếng đàn của một ông lão mù qua lại trên bến sông kiếm tiền độ nhật. Đợi ông lão đến gần Ngài thều thào hỏi: “Làm sao mà ông khảy lên được những tiếng đàn du dương tuyệt vời đến thế?”
Ông lão trả lời: “Người chơi đàn phải biết quy luật của âm điệu, không lên dây quá căng đàn sẽ đứt, lên dây chùng quá sẽ lạc điệu. Chỉ nên căng dây vừa phải thì âm thanh mới trầm bổng, du dương, thanh tao, dìu dặt”.
Nghe xong điều này thái tử chợt nhận ra rằng việc tu hành cũng thế! Khổ hạnh thái quá thân xác rã rời mệt mỏi, khiến tinh thần u mê. Ngài nhận ra thân người là quý, sức khỏe là quý. Thân giúp ta tiến tu, nếu như ta ngã ra chết thì làm sao tu tập được. Suy nghĩ như thế, Ngài tự cho Khổ hạnh bao nhiêu đó đã đủ rồi.
Từ đó, thái tử chủ trương Trung Đạo, tức là không lợi dưỡng nuông chiều tấm thân như thời kỳ làm Thái tử; nhưng cũng không đày đọa tấm thân như thời kỳ sống trong rừng khổ hạnh; mà gìn giữ sức khỏe để đủ sức tu hành.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni áp dụng phương pháp thở như thuở nhỏ
Ngài đi tìm lại 5 vị đạo sĩ tu Khổ Hạnh, báo cho họ biết rằng Ngài đã từ bỏ lối tu Khổ Hạnh; ăn uống bình thường để phục hồi sức khoẻ cho cơ thể và sẽ áp dụng phương pháp Thở mà Ngài đã kinh nghiệm hồi còn nhỏ. Nghe như vậy 5 anh em Kiều Trần Như chê bai, khinh thường Ngài; nói rằng Ngài đã ham lợi dưỡng trở lại; không còn tinh tấn tu theo Khổ Hạnh nữa, và bỏ Ngài lại một mình.
Thời gian này, ngài đi khất thực và vô khu rừng cây Bàng (Banyan) tọa thiền. Tại nơi đây Ngài nhớ lại thuở nhỏ lúc 9, 10 tuổi, trong dịp Lễ Hạ Điền do nhà vua tổ chức, Ngài đã ngồi dưới gốc cây hồng táo bâng quơ theo dõi hơi thở rồi nhập định sâu; kinh nghiệm tâm tĩnh lặng, dễ chịu, phấn chấn bao trùm khắp toàn thân, mà Ngài gọi là hỷ lạc.
Ngài liền áp dụng phương pháp Thở trở lại; ngồi thẳng lưng, bàn tay này đặt trên lòng bàn tay kia; tâm trí buông thả, trở về với tâm trạng của trẻ thơ lúc 9 tuổi. Ngài hít vào thở ra, lúc đầu hơi thở còn thô, sau nhẹ dần và từ từ đi vào định; kinh nghiệm trạng thái tâm tĩnh lặng và hỷ lạc y như hồi còn thơ ấu. Thế là sau khi xả thiền, Ngài quyết định tu theo pháp môn Thở này.
49 ngày ngồi dưới gốc cây Bồ Đề
Tu tập ở đó một thời gian, ngài nhận thấy nơi này thỉnh thoảng vẫn có người qua lại cúng dường và hay cầu xin chuyện nọ chuyện kia, nên ngài rời bỏ khu rừng Cây Bàng (Banyan) băng qua sông Ni-Liên-Thiền. Đi dọc sông Ni-Liên-Thiền đến khu rừng Pipphala; về sau người ta gọi là cây Bồ Đề.
Ngài chọn cây Bồ Đề có tán rộng che nắng che mưa; rồi trải hai bó cỏ Kusha của một thanh niên cúng dường Ngài trên đường đi đến đây, để làm bồ đoàn. Ngài ngồi xuống bồ đoàn Kusha và phát nguyện: “Dù cho da, thịt, xương, gân của ta có tan hoại và máu ta có khô cằn. Nếu không đạt quả vị Chánh Giác, ta sẽ không rời chỗ này”.
Tuần thứ nhất
Tuần thứ nhất, Ngài bắt đầu thực hành pháp Thở, mà chính Ngài đã khám phá ra gọi là Định Niệm Hít Vào Thở Ra. Về sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật lại giai đoạn này như sau: “Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất; một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ… lạc thọ khởi lên nơi ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta” (tầm: Lời nói thầm; tứ: lời đối thoại thầm lặng).
Tuần thứ hai
Tuần thứ hai, Ngài chấm dứt lời nói thầm, chỉ giữ niệm Biết mà thôi: “Biết hít vào, biết thở ra”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật lại: “Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai; một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm… Lạc thọ khởi lên nơi ta, được tồn tại, nhưng không chi phối tâm ta”.
Tuần thứ ba
Tuần thứ ba, Ngài nhận biết hỷ lạc khởi lên nhưng không thưởng thức hỷ lạc mà an trú ở trong tâm tĩnh lặng, thanh thản. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật lại: “Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ… chứng và trú thiền thứ ba… Lạc thọ khởi lên nơi ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta”.
Tuần thứ tư
Tuần thứ tư, Ngài rơi vào trạng thái bất động. Chút dính mắc trong tâm với trạng thái an lạc cũng biến mất. Nội tâm của Ngài ở trạng thái tĩnh lặng sâu. Đức Phật thuật lại: “Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước; chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh”.
Giác ngộ thành Phật
Sau 49 ngày, ánh sáng giác ngộ đã chiếu sáng tâm thuần tịnh của Ngài. Ngài nhận ra bốn sự thật mà con người ai cũng phải chịu. Đó là sự thật về khổ, khổ thì có nguyên nhân đưa đến khổ, diệt nguyên nhân thì sẽ chấm dứt Khổ, gọi chung là Tứ Diệu Đế gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng: “Ta biết như thật ‘Đây là khổ’. ‘Đây là nguyên nhân của khổ’. ‘Đây là sự diệt khổ’. ‘Đây là con đường đưa đến diệt khổ'”. Lúc này Đức Phật đã đắc quả A-La-Hán và chấm dứt tái sinh.
Sau đó ngài còn ở lại dưới cội Bồ Đề thêm 7 tuần để chiêm nghiệm lại những Pháp mà ngài đã thành tựu; quán chiếu về nhân sinh quan và vũ trụ quan. Cuối cùng ngài chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, người ta tôn Ngài là Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi giác ngộ thì trước tiên đi tìm lại những người thầy của mình để truyền Pháp cho họ; nhưng tiếc là họ đều đã qua đời. Đức Phật lại đi tìm 5 người tu khổ hạnh với ngài trước kia. Sau khi thuyết giảng xong thì họ đã trở thành những tỳ kheo đầu tiên của Đức Phật. Sau đó ngài liên tục đi khắp nơi giảng Pháp, hóa độ chúng sinh; khiến văn hóa tu luyện được lưu truyền cho đến tận ngày hôm nay.