Hiện nay trong điều tra tội phạm, người ta thường sử dụng máy phát hiện nói dối. Nhưng thời xưa thì việc thẩm tra án được thực hiện như thế nào?
Ở Roma, Ý có một tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch nổi tiếng; đó là tác phẩm được chạm khắc từ thời cổ đại được gọi là “Chân lý chi khẩu”.
Vì hình dáng độc đáo của nó, người ta tin rằng nếu bạn là kẻ nói dối, thì khi đưa tay vào miệng của bức tượng, sẽ lập tức bị cắn đứt; đây được coi là máy phát hiện nói dối cổ đại.
Tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch này đã xuất hiện trong nhiều bộ phim, đặc biệt là phân đoạn trong phim “Kỳ nghỉ La Mã”.
Thời cổ đại không có máy phát hiện nói dối, khi xử án gặp phải những kẻ nói dối, họ đã làm thế nào để phát hiện và đưa ra phán quyết công bằng; hãy cùng xem một vài câu chuyện thời Trung Quốc cổ đại nhé!
Cách phát hiện nói dối thời nhà Tống
Thời Bắc Tống, Trần Tương là quan tri huyện ở Phổ Thành, Phúc kiến. Có một năm, ở vùng đó xảy ra vụ án trộm cướp. Mặc dù bắt được mấy người tình nghi, nhưng không ai chịu nhận tội; ai cũng nói mình vô tội. Rốt cục ai nói dối, ai mới là kẻ trộm, điều này khiến quan phủ nhất thời khó mà phán đoán được.
Trần Tương suy nghĩ, nảy ra một diệu kế. Ông cho người tung tin, chiếc chuông trong miếu vô cùng linh nghiệm; có thể nhận biết được kẻ trộm một cách chính xác. Hễ kẻ trộm chạm vào nó sẽ kêu lên, báo động với mọi người.
Trần tri huyện sai người đặt chiếc chuông phía sau công đường, rồi cho gọi những nghi can của vụ án tới. Nói rằng: “Nếu là kẻ trộm thì chạm vào chiếc chuông này nó sẽ phát ra tiếng kêu; còn không phải kẻ trộm thì dù chạm thế nào cũng không có âm thanh gì”.
Dứt lời, tri huyện đích thân dẫn theo các quan lại, sai nha trang nghiêm cầu khấn trước chuông. Sau khi lễ bái xong, ông ra lệnh phủ lên một tấm màn, đồng thời yêu cầu các nghi phạm lần lượt thò tay qua màn để chạm vào chuông.
Khi tất cả những kẻ tình nghi chạm vào chuông xong, ông yêu cầu họ đưa tay ra, trên tay ai cũng dính mực, chỉ có một người không có mực.
Hóa ra chuông linh nghiệm chỉ là để đánh động tâm lý kẻ trộm. Trần tri huyện đã cho người bôi mực lên chuông sẵn. Kẻ trộm vì sợ chuông kêu nên không dám chạm vào chuông, vì thế mà tay không dính mực. Trần tri huyện dựa vào tâm lý phạm tội, để tìm ra kẻ trộm thực sự, phá được vụ án.
Đối chiếu hai bản cáo trạng, vạch trần lời nói dối
Cuối thời nhà Tùy, Dương Đế vô đạo, dân chúng phẫn nộ. Đường Cao Tổ Lý Uyên khởi binh chống lại nhà Tùy ở Thái Nguyên. Khi đó, Lý Tĩnh, và Vệ Văn Thăng là quan chức nhà Tùy tại Trường An. Lý Uyên bình định Quan Trung, dự định sẽ xử tử hai người này.
Lý Tĩnh nghiêm giọng nói: “Ngươi bình định Quan Trung hay là vì tư thù? Nếu thực sự vì thiên hạ thì sẽ không giết ta”.
Lý Uyên nghe thấy có đạo lý, lại thêm Lý Thế Dân nói đỡ; bèn đặc xá tha cho Lý Tĩnh, còn sắp xếp cho làm thứ sử Kỳ Châu.
Sau đó, có người mật báo rằng Lý Tĩnh có ý mưu phản, Lý Uyên liền phái một vị Ngự sử đi điều tra sự việc.
Ngự sử phụng chỉ tới Kỳ Châu, gặp người đã cáo trạng. Thông qua nhiều dấu hiệu, Ngự Sử cho rằng người này cố ý vu cáo Lý Tĩnh. Trong lòng nghi ngờ kẻ cáo trạng, nhưng lại không biết làm thế nào để vạch trần lời nói dối của hắn.
Ngự sử bèn nghĩ ra một cách, giả vờ rằng đơn khiếu nại bị mất; làm bộ sợ hãi và cố tình quở trách thuộc hạ. Sau đó năn nỉ người kia viết lại cáo trạng khác.
Sau khi kẻ kia viết lại tờ cáo trạng, Ngự sử mang hai bản ra so sánh thì thấy lời lẽ không trùng khớp, có nhiều sơ hở. Bởi vậy mà vạch trần được sự dối trá, vu khống của hắn, trả lại sự trong sạch cho Lý Tĩnh. Ông trở lại Trường An, bẩm báo chi tiết, Lý Uyên cũng rất kinh ngạc.
Cách phát hiện nói dối dưới thời nhà Thanh
Do ảnh hưởng bởi các bộ phim truyền hình cổ trang; nhiều người nghĩ rằng việc thẩm vấn các nghi phạm Trung Quốc thời cổ đại phải dùng đến nhục hình, tra tấn.
Tuy nhiên, dưới triều đại nhà Thanh, Trương Thuyền Sơn đã thẩm vấn nghi phạm thông qua việc nói chuyện phiếm; từ đó mà giải quyết được vụ án khó.
Trương Thuyền Sơn lấy thân phận hàn lâm học sĩ tới Sơn Đông, Lai Châu nhậm chức tri phủ. Vì có tài nên sinh ngạo mạn, đối với Sơn Đông tuần phủ Bạch đại nhân không chút kiêng nể. Bạch đại nhân trong lòng oán giận. Cho rằng Trương Thuyền Sơn là thư sinh, sao có thể đảm đương được chức vụ.
Quan trên nơi đó nói rằng: “Tiểu tử này tuy là thư sinh, lại có chút kiêu ngạo nhưng hắn thực sự có tài; đừng bận tâm hắn mà làm lỡ việc của bách tính”.
Tuần phủ không tin, liền đem vụ án khó nhất cho Trương giải quyết. Đây là một vụ án trộm cắp, chính quyền Lai Châu đã bắt được một tên cướp từ Giang Dương. Tên này rất xảo quyệt, nói dối nhiều lần, liên tiếp phản cung; vì vậy mà không thể thẩm tra rõ ràng được, mãi vẫn chưa thể định án.
Hàn huyên để định án
Trương Thuyền Sơn đến thẩm tra tên nghi phạm. Mọi người hỏi cần hình cụ gì? Trương mỗ nói khi nào cần hình cụ sẽ nói sau; hiện tại chỉ cần chuẩn bị một khay thịt khô Kim Hoa, một bình rượu Thiệu Hưng thật ngon.
Rượu thịt chuẩn bị xong, trương kêu hai thư đồng tới, một người rót rượu, một người ngồi ghi chép. Sau đó gọi kẻ tình nghi ra, một tay xem hồ sơ vụ án, một tay rót rượu, cùng nghi phạm uống rượu tán gẫu chuyện nhà.
Trương Thuyền Sơn cũng chỉ đề cập những vấn đề rất đơn giản; như hỏi tên, tuổi, tình trạng gia đình,… Cứ như vậy mà hàn huyên ba ngày, thư lại đều ghi chép cẩn thận tất cả.
Đến ngày thứ ba, Trương Thuyền Sơn nghiêm nghị nói: “Ta và ngươi đã hàn huyên ba ngày; nhưng câu trả lời của người trước sau không nhất quán. Những chuyện vụn vặt ngươi còn dối trá, huống chi là vụ án này”.
Sau đó nhắc nhở phạm nhân, nếu thành thực khai nhận, thì mới là hảo hán. Còn nếu tiếp tục xảo biện, dối trá liên tục, thì dù xử tử cũng đáng. Nghi phạm bèn dập đầu xin tha, thú nhận chi tiết, thề không dám phản cung. Cứ như vậy, một vụ án khó đã được giải quyết thuận lợi.
Người xưa tuy không có các thiết bị hiện đại, nhưng lại biết vận dụng trí tuệ, dựa vào tâm lý của tội phạm mà tìm ra được cách xử án vô cùng chính xác.
Theo Epochtimes