‘Tiền bạc’ là vị thuốc đặc biệt, nếu biết chế ngự thì có thể sống lâu khỏe mạnh
Hơn 1000 năm trước, vào năm Khai Nguyên triều đại nhà Đường, tể tướng Trương Duyệt đã viết bài văn “Tiền bản thảo”, chỉ hơn 200 chữ nhưng đã nói rõ bản chất của tiền bạc.
- Tham ô tiền quyên góp của dân bị báo ứng mất mạng
- Muốn được trường sinh bất lão nhưng tiền tài bất chính phải làm sao?
Nội dung chính
‘Tiền bạc’ là vị thuốc đặc biệt
Trương Duyệt đã ví tiền bạc với thuốc, một góc nhìn đặc biệt nhưng lại rất chuẩn xác. Nguyên văn bài viết “Tiền bản thảo” của ông như sau:
“Tiền có vị ngọt, tính nhiệt, có độc. Tác dụng phụ lưu giữ dung nhan, chữa bệnh đói, giải khốn khó có hiệu nghiệm ngay. Tiền có thể có lợi cho quốc gia, gây thiệt hại cho người hiền đạt và rất sợ người thanh liêm. Người tham lam uống thuốc ‘tiền’ thì nên phân chia đều là tốt nhất. Nếu không phân chia đều thì nóng lạnh công kích nhau khiến bản thân người đó hỗn loạn.
Thuốc tiền thu hái không theo thời vụ. Thu nhận không đúng lễ thì tổn thương đến tinh thần. Tiền rất thịnh hành, có thể chiêu mời Thần linh, thông với khí quỷ. Nếu tích lũy mà không phân tán thì sẽ sinh ra tai họa thủy hỏa đạo tặc. Nếu phân tán mà không tích lũy thì sẽ sinh bệnh đói rét khốn khó.
Vừa tích lũy vừa phân tán thì gọi là Đạo. Không coi nó là trân quý thì gọi là Đức. Nhận và cho hợp lễ nghi thì gọi là Nghĩa. Không cầu tiền không phải của mình gọi là Lễ. Bố thí rộng rãi cứu tế dân chúng thì gọi là Nhân. Chi trả không sai hẹn gọi là Tín. Người không vì thuốc ‘tiền’ làm tổn hại đến mình thì gọi là Trí.
Tinh luyện 7 thuật này thì mới có thể uống thuốc ‘tiền’ lâu dài, khiến người trường thọ. Nếu uống thuốc ‘tiền’ mà không theo lý lẽ thì ý chí suy nhược, tinh thần tổn thương, nhất định phải kiêng kỵ”.
7 thuật giúp khắc chế tiền bạc: Đạo, Đức, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín
1. Đạo dùng tiền bạc: Vừa tích lũy vừa phân tán
Phạm Lãi, danh sĩ thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã phò tá Việt vương Câu Tiễn 20 năm để khôi phục quốc gia. Sau khi thành công, ông không cần bất kỳ sự ban thưởng nào, hai bàn tay trắng rời đi đến nước Tề.
Ở nước Tề, Phạm Lãi hai bàn tay trắng dựng lên cơ đồ, lại làm ăn buôn bán. Vì ông buôn bán rất tốt nên được Tề Vương Chiêu mời làm tướng quốc. Nhưng ông lại cho đi hết tài sản của mình, trả lại ấn tướng; lại hai bàn tay trắng đi đến đất Đào. Ở nơi này, Phạm Lãi lại bắt đầu kinh doanh buôn bán. Trong vòng 19 năm, ông 3 lần tích lũy gia tài nghìn lượng vàng rồi lại 3 lần phân tán, cho đi hết tài sản của mình.
Phạm Lãi coi tiền tài danh vọng đều là vật ngoại thân, có thể tùy ý vứt bỏ, mà vì có thể từ bỏ nên lại có thể đắc được.
2. Đức: Không coi tiền là báu vật
Xưa có một người tên là Lý Giác, người Giang Dương, Quảng lăng, làm nghề buôn bán lương thực. Năm ông 15 tuổi thì cha ông đến nơi khác, giao việc kinh doanh lương thực lại cho Lý Giác quản lý.
Điều đặc biệt là người đến mua lương thực, Lý Giác đưa thăng và đấu cho người ta tự đong. Ông không tính giá đắt rẻ theo lương thực đương thời, mà mỗi đấu chỉ cần lời 2 xu để nuôi dưỡng cha mẹ. Nhiều năm sau, nhà ông lại trở nên rất giàu có.
Cha ông thấy vậy mới ngạc nhiên nói: “Cha chỉ dùng một loại thăng và đấu để mua bán, thời gian cũng rất lâu rồi, tự cho rằng không có sai lệch gì. Giờ đây con đổi thành mua bán tự cân đong, quả là cha không bằng con rồi. Nhưng để người mua bán tự đong mà lại trở nên giàu có, lẽ nào là Thần linh trợ giúp con chăng?”
Quả nhiên Lý Giác không phải là người tầm thường. Sau này khi đến trăm tuổi, ông đã đắc Đạo thành Tiên và bay về trời.
3. Nhân: Bố thí hành thiện, giúp đỡ người khác
Hồ Tuyết Nham là doanh nhân cuối thời nhà Thanh. Một ngày nọ, có một thương nhân đi vào cửa hàng của ông với vẻ mặt lo lắng. Người này đang làm ăn thua lỗ, muốn cầm toàn bộ tài sản của mình cho Hồ Tuyết Nham với giá cực rẻ.
Hồ Tuyết Nham bảo vị thương nhân đó ngày mai đến. Ông thông qua tìm hiểu thì biết vị thương nhân đó nói thật. Ông quyết định dùng một lượng lớn tiền mặt để mua lại gia sản của vị thương nhân đó với giá thị trường. Còn nói rằng vị thương nhân đó có thể mua lại bất cứ lúc nào, chỉ cần trả thêm chút lãi suất so với ban đầu là được.
Mọi người đều ngạc nhiên không biết tại sao ông lại bỏ lỡ một món hời như vậy. Hồ Tuyết Nham mới kể rằng: “Khi còn trẻ người chủ thường nhờ tôi đi đòi nợ. Một lần đi thì gặp mưa to, thấy có người dầm mình trong mưa nên tôi đã lấy ô của mình cho họ dùng chung. Sau này khi trời mưa, tôi thường mang ô để giúp đỡ người lạ. Dần dần thì nhiều người trên đường đó đều biết đến tôi. Sau này ra đường dù có quên ô thì cũng không phải lo lắng, vì sẽ có nhiều người đến đưa ô cho tôi”.
Che ô cho người cũng là che ô cho mình
Ông nói tiếp: “Gia sản của vị thương nhân đó có thể đã được tích lũy qua nhiều đời. Nếu tôi mua với giá mà anh ấy nêu ra, tất nhiên là có lời rồi, nhưng có thể họ cả đời không phục hồi được. Đây không phải đơn thuần là đầu tư, mà là cứu một gia đình. Khi ai không có ô vào ngày mưa, chỉ cần giúp được họ thì giúp”
Sự nhân nghĩa và chính trực của Hồ Tuyết Nham đã gây ấn tượng với các quan chức và người dân ở đó; nhờ vậy mà công việc kinh doanh ngày càng tốt hơn. Vài năm sau, vị thương nhân kia đã mua lại số tài sản và trở thành đối tác trung thành nhất của Hồ Tuyết Nham.
4. Lễ: Không tham tiền không phải của mình
Tạ Đình Ân là thương nhân nghĩa khí nổi tiếng thời nhà Thanh. Một lần nọ, khi ông đang kinh doanh ở Phúc Kiến, một vị thương nhân đến mua sợi đay của ông, sau khi trả tiền thì lập tức ra về. Tạ Đình Ân đếm lại tiền hàng thì thấy người này đã trả thừa số tiền bằng một nửa tiền hàng.
Người xung quanh đều khuyên ông cứ bỏ túi, nhưng Tạ Đình Ân quyết định trả lại cho bằng được. Tạ Đình Ân biết người khách hàng đó là một ông chủ cửa hàng vải; vì vậy mới vào trong thành tìm từng cửa hàng vải một. Cuối cùng cũng tìm được vị khách đó để trả lại tiền thừa.
Vị khách vô cùng kinh ngạc và cảm phục sự chính trực của Tạ Đình Ân. Kể từ đó hai người trở thành bạn thân của nhau. Câu chuyện này sau đó được lưu truyền rộng rãi ở Phúc Kiến. Vị khách này về sau không chỉ trở thành khách hàng trung thành mà còn giới thiệu thêm nhiều người khác đến mua hàng của Tạ Đình Ân. Công việc làm ăn nhờ thế ngày càng phát đạt, chưa đầy 20 năm đã trở thành đại phú Phủ Châu.
5. Nghĩa của tiền bạc: Lấy và bỏ hợp lý
Vào thời nhà Minh, có một vị tú tài họ Chu, là người trang nghiêm chính trực, gia cảnh nghèo khó. Một hôm, vợ anh phát hiện 2 nén bạc ở dưới viên gạch trên bếp lò. Cô vô cùng vui sướng, nghĩ rằng thật may lại được thật nhiều tiền. Nhưng tú tài Chu lại nói rằng: “Đây là tiền bất nghĩa, sao có thể chiếm làm của mình được”.
Anh lấy bút viết lên 2 nén bạc rằng: “Nếu là tiền của tôi thì đưa cho tôi một cách rõ ràng minh bạch”. Sau khi viết xong, anh đi đò tới giữa sông và ném xuống nước. Sau đó đi về nhà.
Người lái đò thấy tú tài Chu ném bạc xuống nước thì khởi lòng tham, liền thuê ngư phủ mò vớt bạc. Tuy nhiên, ngư phủ vớt được mà lại giấu đi, nói với người lái đò rằng tìm không thấy.
Người lái đò không tin mới đi kiện ra quan phủ. Quan Thái thú dùng hình tra khảo. Ngư phủ bị áp giải đi lấy bạc. Thái thú thấy trên 2 nén bạc có chữ, bèn đem nhập vào kho phủ.
Về sau tú tài Chu thi đỗ cử nhân. Theo lệ cũ, Thái thú sẽ mở tiệc khoản đãi tân cử nhân, và đặt bạc trước mỗi vị cử nhân làm quà tặng. Điều khiến người ta kinh ngạc là 2 nén bạc đặt trước mặt Cử nhân Chu chính là 2 nén mà anh đã vứt đi, chữ trên đó vẫn còn. Sau này, Cử nhân Chu thi đỗ tiến sĩ.
Câu nói của Tú tài Chu “đưa cho tôi một cách rõ ràng minh bạch”, nghe có vẻ cổ hủ, nhưng đó chính là cách hành xử của bậc quân tử.
6. Trí: Không để tiền bạc làm tổn hại đạo nghĩa
Trong sách cổ thời Tây Hán “Hoài Nam Tử – Nhân Gian Huấn” có chép lại một câu chuyện như sau: Tần Mục Công phái tướng quân Mạnh Minh đi đánh úp nước Trịnh. Trên đường đi Mạnh Minh tình cờ gặp một thương nhân nước Trịnh tên là Huyền Cao ở biên giới phía Đông của nhà Chu.
Huyền Cao nhìn thấy quân đội của Mạnh Minh thì bàn với những người bạn của mình rằng: “Quân Tần có thể hành quân nghìn dặm, xuyên qua các nước chư hầu, với mục đích là đánh úp nước Trịnh. Họ nghĩ quân Trịnh không phòng bị gì. Nếu như, chúng ta nói với họ rằng nước Trịnh đã sớm có chuẩn bị, chắc chắn họ sẽ không dám tiến bước.”
Vì vậy, Huyền Cao giả vờ được lệnh của nước Trịnh, thưởng cho quân Tần mười hai con bò để khao quân. Mạnh Minh và 3 vị nguyên soái quân Tần thấy nước Trịnh cho người đến khao quân Tần, cho rằng nước Trịnh đã có chuẩn bị nên dẫn quân quay về nước Tần.
Bậc quân tử coi việc lừa gạt người khác là đáng xấu hổ
Trịnh Mục Công thấy Huyền Cao đã lập đại công nên muốn trọng thưởng ông. Ông cương quyết từ chối mà nói rằng: “Quân Tần bị thần lừa gạt nên mới lui binh. Nếu được ban thưởng vì lừa gạt người khác thì sẽ hủy hoại uy tín của nước Trịnh. Nếu điều hành đất nước mà không có tín nhiệm, đó là một cách làm xấu xa. Những người có đạo đức và nhân nghĩa cũng sẽ không dùng những thủ đoạn gian dối để đổi lấy phần thưởng.”
Sau đó Huyền Cao dẫn người của mình đến định cư ở khu vực Đông Nghi và không bao giờ quay trở lại nữa.
7. Tín: Lời hứa ngàn vàng, quyết không bội ước
Lại nói về Phạm Lãi, một lần nọ, Phạm Lãi gặp khó khăn trong việc xoay vòng vốn nên phải vay phú ông kia 10 vạn tiền. Một năm sau, gia đình phú ông đi đòi nợ, trên đường đi vô tình làm rơi gói hàng xuống sông. Trong đó có cả giấy ghi nợ và lộ phí đi đường.
Khi đến gặp Phạm Lãi kể lại sự tình. Phạm lãi vẫn trả lại hết nợ và tiền lãi mà không cần giấy nợ. Không những thế ông còn cho thêm chi phí đi lại. Lòng nhân từ và tín nghĩa của ông lan khắp thiên hạ; về sau ai cũng chủ động đến giúp ông vượt qua cơn khủng hoảng.
Người không có chữ Tín thì không thể có chỗ đứng trong thiên hạ. Người xưa trung thực và đáng tin cậy, nhất quán trong lời nói và hành động.
Tiền bạc nếu dùng đúng cách thì có thể tế thế độ nhân, nếu dùng sai cách thì hại người hại mệnh. Trong thuốc ‘tiền bạc’ còn có cả Đạo Đức Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, nếu vận dụng tốt thì có thể sống trường thọ, cuộc đời hạnh phúc viên mãn.
Theo Minh Huệ