Không lo người khác không hiểu mình, chỉ sợ mình không hiểu người

Trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói rằng: “Bất hoạn nhân chi bất kỷ tri, hoạn bất tri nhân dã.” Nghĩa là không lo người khác không hiểu mình, chỉ lo mình không hiểu người.
Luận Ngữ có hai mươi thiên, thiên đầu là “học nhi thiên”, bao gồm 16 chương. Chương đầu tiên nói rằng: “Học mà thường ôn tập, há chẳng vui sao? Có bạn từ phương xa tới, há chẳng vui sao? Người không hiểu mình mà mình không giận, há chẳng phải là bậc quân tử sao?”
Ý tứ của chương mở đầu rất cao xa, sâu rộng. Vậy chương cuối cùng đã kết thúc ra sao? Dường như có phần bất ngờ, khi chương cuối lại khéo léo ứng hợp với chương đầu: “Không lo người khác không hiểu mình, chỉ lo mình không hiểu người.”
Vì sao “hiểu người” lại quan trọng đến thế?
Tiền Mục (một học giả nổi tiếng Trung Hoa, thế kỷ 20) nêu ra hai ví dụ: “Nếu không có Khổng Tử, thì thiên hạ đã chẳng biết Nghiêu Thuấn xứng đáng được tôn làm tổ tông; Nếu không có Mạnh Tử, thì thiên hạ cũng chẳng biết Khổng Tử là bậc thánh nhân hiếm có từ khi có con người tới nay.” Như vậy, đủ thấy “tri nhân- hiểu người” là sự nghiệp thiên thu của bậc thánh nhân.
Lại càng bất ngờ hơn, khi toàn bộ Luận Ngữ cũng kết thúc bằng chữ “tri nhân”:
Khổng Tử nói: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã; bất tri lễ, vô dĩ lập dã; bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.” (Luận Ngữ, thiên “Nghiêu viết”)
“Không biết mệnh, quân tử không thành; không biết lễ, lập thân không vững; không biết nói, hiểu người không thông.” Đủ thấy, “hiểu người” cũng là yêu cầu đối với mỗi học giả, trong đó hàm chứa ý nghĩa sâu xa vậy.
Câu “Không lo người không hiểu mình, chỉ lo mình không hiểu người” thể hiện một đặc điểm căn bản trong giáo dục của Khổng Tử: cầu ở chính mình, tức là hướng vào trong để tìm cầu. Như câu nói: “Người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người.” (Luận Ngữ, thiên “Vệ Linh Công”)

Trong xử thế, không oán trời trách người, lấy tinh thần “người không hiểu mình mà mình không giận” làm chỗ đứng, để hoàn thành sự tu dưỡng nhân đức của bản thân, và thành tựu sự nghiệp trong cô tịch lặng lẽ. Đương nhiên, nếu được người biết đến thì càng tốt. Nếu không, thì vì sao Khổng Tử phải chu du khắp các nước chư hầu? Có lần, Tử Cống khéo léo hỏi rằng:
“Ở đây có một viên ngọc quý, nên cất kỹ trong hộp để bảo tồn, hay nên tìm người biết giá trị mà đem bán đi?“
Khổng Tử đáp: “Bán đi thôi! Bán đi thôi! Ta đang chờ vị thương nhân có thể hiểu biết được món hàng đó!” (Luận Ngữ, thiên “Tử Hãn”)
Công Sơn Phất Nhiễu nổi loạn ở đất Phí, mời Khổng Tử đến. Khổng Tử chuẩn bị lên đường. Tử Lộ không vui, nói: “Không có nơi nào đi thì thôi, sao lại phải tới chỗ Công Sơn?”
Khổng Tử đáp: “Người mời ta đi, há lại để ta đi uổng công sao? Nếu có người chịu dùng ta, ta sẽ làm cho đạo đức chính trị nhà Chu được phục hưng ở phương Đông.” (Luận Ngữ, thiên “Dương Hóa”).
Bậc trí tuệ không chỉ “hiểu người” mà còn “hiểu thiên mệnh”
Tuy vậy, lịch sử đã không trao cho Khổng Tử cơ hội trị quốc bình thiên hạ, bởi ở đây có vấn đề của thiên mệnh, tiến trình chung của lịch sử là đã được an bài sẵn.
Khổng Tử là người hiểu thiên mệnh. Nếu có thể hiểu thiên mệnh, thì tự nhiên cũng có thể hiểu người.
Thực ra muốn hiểu người thì phải có tu dưỡng rất cao. Có lần Phàn Trì hỏi về “tri”, Khổng Tử đáp: “Tri nhân.” (Luận Ngữ, thiên “Nhan Uyên”)
Có thể “tri nhân” là trí tuệ. Nếu đã “học” trong thời gian dài mà vẫn không thể hiểu người khác, thì chứng tỏ công phu tu dưỡng vẫn chưa thành thục. Vậy làm sao mới có thể đạt đến cảnh giới “tri nhân”?
Trong thiên này, Khổng Tử, Hữu Tử, Tăng Tử đã giảng ra nhiều phương pháp, như: Học thời phải ôn tập; hiếu kính cha mẹ, kính nhường anh em; không dùng lời khéo nịnh bợ hay sắc mặt giả dối; mỗi ngày tự xét mình ba lần; cẩn trọng và giữ chữ tín; yêu thương rộng khắp mọi người, gần gũi bậc nhân đức; lấy trung tín làm gốc, không kết bạn với người đạo đức thấp kém; có lỗi không ngại sửa; nhanh nhẹn trong công việc, thận trọng trong lời nói; nương tựa bậc có đạo mà sửa chính mình v.v.
Bởi vậy, chương này lấy câu “Không lo người không hiểu mình, chỉ lo mình không hiểu người” để kết thúc toàn bộ thiên, thể hiện mạch lý lẽ rõ ràng, logic chặt chẽ.
Khổng Tử nhấn mạnh “hiểu người”, điều ấy vốn có nguồn gốc. Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử đã giảng: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh” – Hiểu người là trí, tự hiểu mình là sáng suốt.

Thực ra, Khổng Tử từng cầu học nơi Lão Tử, Nho gia và Đạo gia vốn có mối liên hệ sâu xa. Nền văn minh Trung Hoa kỳ này khởi đầu từ Hoàng Đế, mà Hoàng Đế lại là người tu đạo, cuối cùng đắc đạo bay lên trời.
Thời ấy chưa có Nho gia; Nho gia là do Khổng Tử sáng lập, giảng về đạo lý làm người. Sự khác biệt giữa Nho và Đạo, theo lời Trang Tử là: Nho gia du phương chi nội, đạo gia du phương chi ngoại” – Nho gia đi lại trong thế gian, Đạo gia vân du ngoài thế gian.
Đọc kỹ Luận Ngữ, có thể nhận ra không chỉ đạo lý “hiểu người”, mà hầu hết đạo lý được giảng trong Nho giáo đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Đạo Đức Kinh.
Theo Epoch Times