Phán quan âm phủ tranh luận với nho sinh về ‘phúc báo’ trong Phật gia
Cuộc gặp gỡ bất ngờ với vị phán quan âm phủ đã khiến nho sinh thay đổi quan niệm cứng nhắc của mình về Phật gia.
- Ở hiền gặp lành, tin tưởng Thần Phật, đắc phúc báo
- Khinh nhờn Thần Phật giảm phúc báo, tôn kính Thần Phật đắc bình an
Nội dung chính
Vị khách đặc biệt vào đêm khuya
Trong “Duyệt vi thảo đường bút ký” của Kỷ Hiểu Lam vào thời nhà Thanh có chép lại một câu chuyện như sau: Ngô Diệu Minh, cống sinh ở Dĩnh Châu kể rằng, ở quê anh có một vị họ Lâm, là một bậc túc nho, phẩm cách đoan chính. Lâm tiên sinh từng ở nhờ trong một miếu Thần để chăm lo việc học. Ngôi miếu này khá lớn nên có nhiều người đọc sách khác cũng tá túc ở đây. Bởi Lâm tiên sinh cũng hơi khó tính nên rất ít giao du với những sĩ tử ở vùng này.
Một ngày nọ, mãi đến nửa đêm mà Lâm tiên sinh vẫn chưa ngủ được; ông đi tản bộ một mình dưới ánh trăng. Bỗng đâu có một người khách đi đến và mở lời chào ông. Lâm tiên sinh thấy người đi đến cử chỉ phong nhã, lại thêm bản thân đang cảm thấy cô quạnh, nên mời khách vào trong phòng ngồi. Hai người vừa nhâm nhi trà vừa nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Vị khách đó ngôn ngữ phi phàm, lý luận sắc bén; hai người đàm luận với nhau vô cùng ăn ý.
Phải chăng làm việc thiện cầu phúc báo là không nên?
Trong lúc nói chuyện thì bất ngờ đề cập đến chuyện nhân quả. Lâm tiên sinh nói: “Xưa nay các bậc Thánh nhân làm việc thiện lành, tuyệt đối không phải là vì biết trước sẽ được phúc báo rồi mới đi làm. Nếu như vì muốn đắc được phúc báo rồi mới đi làm việc thiện thì tuy cũng hợp lẽ nhưng trong tâm của họ lại đang ẩn chứa dục vọng; vì vậy cũng không có giá trị gì lớn. Cho nên, Phật gia chủ trương lý thuyết gieo trồng ruộng phước, đó là điều mà bậc quân tử coi thường”.
Vị khách nói: “Lời này của tiên sinh có phần phiến diện rồi. Nếu dùng quan điểm này để ước thúc bản thân thì cũng được. Nhưng nếu dùng nó để ước thúc người khác thì không ổn rồi. Nếu dùng nó để yêu cầu đối với người quân tử có đạo hạnh tương đối tốt thì có chút hiệu quả. Nhưng nếu dùng nó để trị quốc an dân thì tuyệt đối không thể được.
Thánh nhân thiết lập việc giáo hóa, mục đích cũng chỉ là để dạy người ta hành thiện mà thôi. Đối với những người không thể tự giác hành thiện thì cần phải khuyên bảo dẫn dắt họ; giúp họ tích cực hành thiện. Đối với những người không có nguyện ý hành thiện thì cần phải khuyến khích họ hành thiện. Vì vậy chế độ thưởng phạt mới được dựng nên”.
Khoan dung độ lượng, khuyến khích con người hành thiện
Vị khách lại nói tiếp: “Đối với những người có thể vì phần thưởng mà hành thiện, các bậc Thánh nhân chỉ tán dương việc làm thiện của họ; chứ không phê phán họ vì được thưởng mới đi hành thiện. Đối với những người vì sợ bị phạt mà tuân thủ pháp luật, Thánh nhân cũng chỉ tán thưởng vì họ tuân theo pháp luật, chứ không phê phán họ vì sợ hình phạt mà tuân thủ luật pháp.
Nếu như dưới sự ước chế của thưởng phạt, khiến cho mọi người đều có thể thuận theo lẽ trời, vui vẻ hành thiện; nhưng lại phê phán họ là tham thưởng sợ phạt, là xuất phát từ tư tâm và dục vọng cá nhân; vậy thì sẽ khiến người ta không biết như thế nào mới là đúng.
Hơn nữa, nếu đã nói tham thưởng sợ phạt là tư tâm dục vọng, vậy mà còn dùng thưởng phạt để khích lệ mọi người hướng thiện; như vậy thì mọi người sẽ thắc mắc rằng: ‘Thánh nhân chẳng phải là đang dùng dục vọng để dẫn dụ tư tâm dục vọng của con người hay sao?’ Tiên sinh có thấy vậy không?
Trong nhân gian, người có trí tuệ cao siêu, vượt trội người khác thì tương đối ít. Còn đa số đều là những người bình thường, nổi trôi theo dòng đời. Vậy nên Thánh nhân lập nên chế độ thưởng phạt là để giáo dục những người từ tầng trung trở xuống. Giáo lý của Phật gia và Nho gia tuy có nhiều chỗ khác biệt; nhưng về việc dạy người hành thiện thì nhất trí với nhau”.
Quan niệm về thiện ác của Phật gia và Nho gia về đại thể là giống nhau
Vị khách diễn giải thêm: “Tiên sinh dựa theo lý luận của Đổng Phu Tử ‘Chính kỳ nghị không mưu kỳ lợi, minh kỳ đạo bất kể kỳ công’ (tạm dịch: làm bất cứ chuyện gì đều là vì duy trì chính nghĩa chứ không phải là vì lợi ích cá nhân; đều là vì làm rạng rỡ chân lý mà không phải là vì công danh của bản thân) để bác bỏ thuyết nhân quả của Phật gia; như vậy chẳng phải cũng bác bỏ chế độ thưởng phạt của các bậc Thánh nhân hay sao?
Tiên sinh chỉ thấy tăng nhân khuyên bảo người ta bố thí, nói như vậy là hành thiện, được phúc báo; chỉ thấy việc đốt hương bái Phật, nói đây là hành thiện, được phúc báo; không làm như vậy chính là không hành thiện, sẽ phải chịu báo ứng. Như vậy tiên sinh liền cho rằng thuyết nhân quả của Phật gia là đang mê hoặc quần chúng.
Thực ra tiên sinh không biết rằng định nghĩa về thiện ác của Phật gia và Nho gia về đại thể cũng là giống nhau. Nhân quả báo ứng mà Phật gia nói đến thì có khác gì với quan niệm ‘tích thiện ắt phúc như; tích ác ắt họa dư’ của Nho gia đâu”.
Vị phán quan âm phủ điểm ngộ cho nho sinh
Lâm tiên sinh đối với lý lẽ uyên thâm của vị khách này vẫn không cho là đúng. Ông muốn nói quan điểm của bản thân thêm một bước nữa. Tranh luận thêm một hồi thì phía Đông trời đã dần sáng, người khách vội đứng dậy cáo từ. Lâm tiên sinh thấy còn rất cao hứng, cứ khăng khăng giữ lại. Vị khách đó bỗng nhiên cứng đờ không động đậy nữa; nhìn kỹ lại thì ra đó là bức tượng đất sét của một vị phán quan ở trong miếu này.
Lâm tiên sinh giật nảy cả mình, trong lòng không khỏi hổ thẹn. Lúc này ông mới ngồi nghĩ kỹ lại những lời vị phán quan đã nói thì thấy cũng rất có đạo lý.
Lâm tiên sinh hiểu rằng có lẽ tư tưởng của mình quá cứng nhắc nên vị phán quan âm phủ mới hiện ra điểm hóa cho ông đôi điều.
Theo Tinh Hoa