Rong ruổi khắp nơi tìm Đạo, duyên may gặp được Phật Pháp chân chính

Tôi đã từng bỏ lại tất cả, bỏ cả tuổi thanh xuân đẹp nhất đời người để đi tìm Đạo; nhưng nhận lại chỉ là sự thất vọng, tủi nhục; may mắn là cuối cùng tôi cũng tìm được Phật Pháp chân chính.
Nội dung chính
Tuổi thơ dị biệt với những câu hỏi đầy khắc khoải về nhân sinh
Tôi là Ngô Thị Hiền, năm nay 32 tuổi, hiện đang sống và làm việc tại Bình Dương.
Từ nhỏ tôi đã sống trong những băn khoăn của vô vàn câu hỏi về sinh mệnh và ý nghĩa của sự sống. Tôi thường hỏi mẹ: “Mẹ ơi, con là ai? Con sinh ra từ đâu? Vì sao con người lại chết? Sau khi chết sẽ như thế nào?”
Dĩ nhiên, mẹ tôi chẳng thể giải đáp cho tôi, bởi gia đình tôi vốn vô thần, không tôn giáo, không tín ngưỡng. Tôi cảm thấy, nếu như con người ai cũng phải chết, vậy thì đời người chẳng phải là một hành trình không ngừng tiến về phía cái chết? Điều này khiến tôi rất sợ hãi và hoang mang.
Từ nhỏ tôi đã mang trong mình những tư tưởng, cảm xúc chẳng giống ai. Tôi rất mẫn cảm với các trường năng lượng và có thể cảm nhận được sự sống, cảm xúc và đau khổ của mọi sinh vật. Tôi có thể cảm nhận được hơi thở của từng cái cây, từng loài động vật nhỏ dù không thực sự nói chuyện được với chúng. Từng nhành cây bị gãy, nhựa nước trong thân ứa ra, cũng khiến tôi đau lòng rơi lệ. Xót xa với cả những bông hoa xinh đẹp bị người ta giẫm nát dưới chân, tôi thường lén nhặt nó bỏ lại vào gốc cây.
Thế nhưng, tất cả những hành vi này của tôi bị cho là bất thường trong mắt mọi người. Cũng may là kết quả học tập của tôi khá ổn, nếu không thì ngay cả cha mẹ cũng cho rằng tôi có vấn đề về tâm thần.
Không ai hiểu được tôi và tôi cũng không hiểu thế giới này. Đôi khi tôi mải chơi đùa, giẫm phải chân chú chó trong nhà, liền ngồi xuống rối rít xin lỗi nó, thế là tôi bị chửi; khóc thương cho một chú chim nhỏ đã chết cũng bị chế giễu. Tôi lớn lên ở một vùng quê nghèo, những trò chơi bắt dế, bắt cào cào, chuồn chuồn,.. đương nhiên tôi chẳng thể chơi cùng đám bạn.
Tôi cũng biết mình dị biệt, nên ngày càng trở nên tự ti, và bị cô lập với bạn bè cùng trang lứa, thậm chí còn bị đặt biệt danh là ‘hâm’.
Còn nhiều chuyện kỳ lạ khác, mà ở độ tuổi lên 4, lên 5 tôi không thể nào liễu giải, đã trở thành nỗi ám ảnh suốt tuổi thơ. Mỗi khi xòe bàn tay ra, rất nhiều thước phim hiện ra ở giữa những đốt ngón tay tôi, thậm chí thấy cả ‘chính mình’ của tương lai. Điều này khiến tôi vô cùng sợ hãi, tới nỗi tôi hình thành thói quen luôn nắm chặt tay mãi cho tới khi lớn.
Tôi luôn cảm thấy cô đơn và bất lực trước thế giới này, và phải cố gắng để quên đi những câu hỏi về nhân sinh không có lời giải đáp, có lúc tôi chỉ ước được giống như bạn bè, có thể vô tư hồn nhiên nô đùa, vô ưu vô lo….
Những vấp ngã đầu đời
Thế rồi, tôi cũng dần lớn lên, tôi cũng hòa nhập được với xã hội. Vốn là đứa trẻ yếu ớt, nhiều bệnh tật, nên từ nhỏ cha mẹ khá bao bọc tôi, tư tưởng của tôi về cơ bản là khá thuần khiết, ngây thơ hơn so với bạn bè. Nhưng cũng chính vì điều này, mà tôi đã gặp phải vô số khổ nạn khi lần đầu rời xa cha mẹ, bước chân ra mảnh đất Hà Thành để học hành và tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp.
Vì tôi rất tin người, tôi chỉ biết dùng suy nghĩ của mình để liễu giải về người khác. Cha mẹ tôi đều là những người nông dân vô cùng chất phác, thật thà và sống đạo đức, nên tôi càng không có quá nhiều khái niệm phức tạp. Ví như tôi tin rằng con người là lương thiện, tôi không hiểu về người xấu, tôi cũng không có nhiều khái niệm về nó, hay ‘lừa đảo’, phản bội, đều là những điều tôi không nghĩ đến. Ai nói gì thì tin nấy, tôi cứ dốc lòng trong mọi mối quan hệ, và mọi công việc. Thế nhưng, dùng tâm thái đó để đối mặt với một xã hội đầy phức tạp, tôi đã phải trả giá rất nhiều.
Tôi cũng tập tành yêu đương, kết giao với rất nhiều bạn bè mới từ khắp mọi miền. Nhưng rồi, những cú sốc đầu đời liên tục ập đến, không có cha mẹ ở bên, không có ai bảo vệ, không hiểu thế sự, không hiểu lòng người, tôi của năm đó chẳng khác nào một ngọn cỏ mong manh trước gió…
Tôi bị phản bội, bị lừa dối, thậm chí là rất nhiều chuyện đau lòng khác. Chỉ vẻn vẹn chưa tới 2 năm tự mình trải nghiệm cuộc sống, mà tưởng như đã 20 năm đời người. Vào lúc mất hết niềm tin vào cuộc sống, tôi đã nuốt khoảng 50 viên thuốc ngủ, rồi lặng lẽ lên giường chờ đợi sự kết thúc đến với mình.
Nhưng lạ thay, trong khoảnh khắc chịu đựng những cơn đau đầu khó thở dữ dội, tôi lại thấy hình ảnh một vị Phật màu vàng kim, và ngay sau đó tôi ói hết sạch mọi thứ. Đột nhiên như có dòng năng lượng nào đó chảy khắp thân, khiến tôi trở nên tỉnh táo, phấn chấn hẳn lên. Tôi nghĩ, nếu đã không thể chết, vậy thì phải thay đổi, phải sống tiếp.
Bước ngoặt đến với Phật giáo
Sau lần tự tử không thành, trong đầu tôi luôn nghĩ về hình ảnh vị Phật kia. Gia đình tôi vô thần nên tôi vốn chưa từng biết đến Phật Pháp. Tôi cũng không có hảo cảm với chùa chiền, vì quê tôi, ở chùa người ta thờ đủ thứ, hầu đồng và lễ bái rất nhiều, khiến mỗi lần lên chùa tôi đều cảm thấy khó chịu và sợ hãi.
Đang trong lúc vô định ấy, thì một người bạn rủ tôi đi chùa, một ngôi chùa cổ ở Huế, cũng tại nơi này tôi đã gặp một người tu hành có công năng – đánh dấu một bước ngoặt lớn trong nhận thức về Thần Phật của tôi. Mọi ký ức thuở nhỏ đột nhiên ùa về, tôi nhớ lại những câu hỏi, nhớ lại những linh cảm của bản thân.
Từ nhỏ tôi luôn cảm thấy đời này của mình không thể sống vô nghĩa được, mình sống phải vì một điều gì đó thật ý nghĩa, dường như mình có sứ mệnh nào đó, nhưng tôi không biết đó là gì. Thế nhưng, từ khi gặp vị sư cô kia, tôi cảm thấy mình phải trở thành một tu sĩ, để cứu độ hết chúng sinh khốn khổ trong bể luân hồi. Ở bên sư cô, tôi có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều điều siêu thực – những điều mà một thanh niên của thời đại mới như tôi vốn không bao giờ tin.
Thông qua sư cô, tôi có thể trò chuyện với các linh hồn. Điều kỳ lạ là các linh hồn này đều biết rất rõ về tôi, họ yêu mến mà gọi tôi là ‘bé đẹp’, họ kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện, từ cổ chí kim. Đặc biệt, họ đều nói tôi có căn tu, và khuyên tôi buông bỏ thế tục để tu hành. Tu hành có thể cứu độ hết thảy chúng sinh.
Thế là không suy nghĩ gì nữa, tôi chắc chắn đó là sứ mệnh mà tôi cần làm trong đời này và tôi đã phát nguyện tu hành trong Phật giáo. Điều này khiến gia đình tôi phản ứng rất dữ dội. Ai cũng cho rằng tôi thực sự có vấn đề về đầu óc, nhưng tôi lại vô cùng vui vẻ.
Tôi cắt phăng mái tóc dài, gửi về quê cho mẹ, quyết dứt áo đi tu. Năm ấy tôi 19 tuổi. Tôi vui vẻ như chú chim chào ngày mới, hớn hở chờ đợi con đường đầy hạnh phúc phía trước. Vẫn là tâm thái ấy, gặp ai cũng tin, gặp thầy nào cũng kính. Tôi khao khát tu hành, tôi say mê đọc mọi sách vở kinh điển của Phật giáo, càng đọc tôi càng thấy như lạc vào một thế giới rộng lớn.

Cùng với hành trình không ngừng học hỏi từ kinh điển, nhận thức của tôi cũng không ngừng thay đổi. Tuy nhiên, những nhận thức ấy lại không ngừng xung đột với thực tế. Kinh, sách diễn giảng Phật Pháp nhiều vô kể, pháp môn cũng nhiều, giảng sư cũng rất nhiều, mỗi người mỗi ý, chính những lời giảng và đường lối giữa các vị thầy cũng có nhiều mâu thuẫn, xung đột, khiến tôi không biết nên nghe ai, theo ai, đâu mới là chân lý, chân Pháp, con đường nào mới có thể giúp tôi tu thành chính quả.
Hành trình khổ ải tìm kiếm Minh Sư
Tôi xuất một niệm, mình nhất định phải tìm được một vị minh sư, chỉ dạy cho mình con đường tu hành đúng đắn; mình đã buông bỏ mọi thứ trần tục, không phải chỉ để đổi lấy một con đường không tới đích, tu hành nhất định phải đi cho chính.
Thế nhưng hành trình tìm kiếm minh sư thật chẳng dễ dàng. Từ những ngôi chùa nổi tiếng đến những tịnh thất trên núi. Từ tịnh viện đến thiền viện, từ bắc vô nam, tôi đã đi qua không biết bao nhiêu ngôi chùa. Đã thỉnh giáo qua không ít vị thầy, từ bậc ẩn tu trên núi đến những bậc thầy nổi danh, nhưng đi tới đâu cũng chỉ ở được một thời gian ngắn, tôi lại chán nản rời đi.
Tôi cứ tưởng rằng, cuộc đời người tu hành là thanh cao, giản dị, chùa là nơi thanh tịnh, tâm người tu chẳng nhiễm bụi trần. Thầy là người soi sáng, dẫn đường cho đệ tử trên con đường tu hành Phật Pháp, chúng đệ tử chuyên tâm tu hành, cuối cùng đoạn dứt phiền não, khai trí khai huệ, thoát khỏi luân hồi. Thế nhưng đi tới đâu, cũng thấy cảnh chùa chẳng thanh tịnh, thầy chẳng thanh tu, nếu không cúng bái kiếm tiền, sai đường lạc lối so với lời Phật dạy, thì cũng chìm trong ái dục sắc tình chẳng khác nào cõi thế nhân.
Nói tới đây, tôi không có ý phê phán ai, hay tôn giáo nào, chỉ là muốn kể lại hành trình tìm Đạo của mình. Hẳn là mọi người cũng chẳng còn xa lạ gì với những bài báo đưa tin về đủ loại bê bối nơi cửa Phật. Tôi cũng chỉ là xác nhận thêm một chút thôi, có lẽ vẫn có những vị chân tu, chỉ là…tôi không đủ duyên gặp.
Khi ấy, tôi không quá xinh đẹp, nhưng cũng gọi là có một chút nhan sắc. Tôi chẳng nhớ đã bao lần vô cửa chùa mà ngỡ rơi vào động bàn tơ, hết bị dụ làm con, lại bị dụ làm người tình, dụ mua xe, mua nhà, thầy nam rồi cả thầy nữ, hết thầy rồi đến đệ tử đồng môn.
Than ôi! đi tu mà thân ngọc khó giữ, lòng thành khó tu. Không biết bao nhiêu lần tôi phải trốn chạy, nhưng cũng có lúc lại bị đuổi đi. Khi thì bị quấy nhiễu, lúc lại vì tôi chẳng vâng lời, không chịu đi cúng, không làm việc “Phật sự”. Nào là đám ma, đám giỗ, đám cưới, nhà mới, xe mới,… nào là cầu an, cầu siêu, cầu tài… Toàn thân thấm mùi nhang khói nhưng chẳng thấm đạo.
Đến một ngày tôi được nghe các bài giảng về Kinh Pháp Diệt Tận, tôi lại càng thêm tuyệt vọng về con đường tu hành của mình. Trong Kinh có giảng:
“Sau khi Như Lai nhập niết bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu. Trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành; Ma quỷ biến thành sa môn, nó sẽ xuyên tạc và phá hoại giáo pháp của ta. Nó mặc y phục của hàng cư sĩ, ưa thích y phục đẹp đẽ và giới y thì may bằng loại vải có màu sặc sỡ. Nó uống rượu, ăn thịt, giết hại các sinh vật khác và tham đắm thọ hưởng cao lương mỹ vị. Nó không có lòng từ bi và thường mang lòng sân hận, đố kỵ lẫn nhau.”
Tôi cảm thán: Chẳng phải đây chính là những gì mình đang tận mắt chứng kiến sao? Những gì tôi đã trải qua, thấy được, nghe được, biết được về sự bại hoại của giới tu sĩ giả tu thời nay, thực sự vượt xa những gì mà mọi người có thể hình dung.
Suốt 2 năm, lại là 2 năm, tựa hồ như hai mươi mấy năm. Một thân một mình, tôi lang thang khắp chốn. Đi tới mỏi mệt, đi tới chùn chân chùn ý. Bệnh tật giày vò, con đường bế tắc. Đến một lúc, tôi không thể chịu được nữa, tôi lại nghĩ đến….tự tử. Khi này dù đã biết rõ đạo lý, chết không phải là hết, tự tử là có tội, nhưng trạng thái tâm lý của tôi đã đến cực hạn.
Trời đất bao la, chùa chiền nhiều vô kể, nhưng tôi chẳng tìm được nổi một chốn an tu, không thấy đạo, không biết phương hướng tu, tôi thực sự đã sụp đổ…
Cơ duyên gặp được Phật Pháp chân chính
Trong cơn tuyệt vọng, lúc nửa đêm, tôi leo lên một vách tường cao, phía xa là cánh đồng hoang, phía dưới là gạch đá lởm chởm. Tôi thầm nghĩ, nhảy xuống đó không chết thì cũng què quặt. Sao cũng được, cuộc sống quá đỗi mệt mỏi rồi, những năm qua, không bị quấy rối thì cũng bị sỉ nhục, thậm chí bị đánh đập, bị đuổi đi, thành Phật không thấy chỉ thấy thân tàn ma dại.
Tôi thực sự đã nhảy xuống, nhưng vẫn sống, thậm chí đến một vết thương cũng không có. Lại phải sống! cũng như lần trước, sau mỗi lần tự tử không thành, tôi lại như được tiếp thêm sức mạnh. Lần này tôi quyết định về Vũng Tàu – nơi có một người từng giới thiệu cho tôi một môn tu Phật, và nói thêm rằng đó là chính Pháp.
Đó là khoảng tháng 5 năm 2014, tôi quyết định thử vận may, đằng nào giờ cũng chẳng có gì để mất, chẳng có gì để hy vọng. Và kể từ đó cuộc đời tôi đã có một bước ngoặt lớn…
Khi chỉ mới vừa đọc xong Luận ngữ – phần mở đầu của cuốn sách Chuyển Pháp Luân (quyển sách chính của môn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp), tôi đã òa khóc. Những giọt nước mắt vừa hạnh phúc vừa bi thương. Hạnh phúc vì nhận ra đây chính là Phật Pháp chân chính mà tôi luôn tìm kiếm, bi thương vì tôi phải mất quá lâu, trải qua quá nhiều đau khổ mới tìm thấy được.

Tôi bị chấn động bởi những pháp lý đơn giản nhưng thâm sâu mà Sư phụ Lý Hồng Chí giảng. Tôi say mê đọc tới bài giảng thứ 7, thì hạ quyết tâm “mình nhất định phải tu môn này”, đây mới là chân kinh, mới là chính Pháp mà tôi hằng mong mỏi. Những Pháp lý trong sách đã đánh thông toàn bộ tư tưởng và những thắc mắc về nhân sinh quan, vũ trụ quan của tôi từ thời thơ ấu tới khi trưởng thành và tìm Đạo.
Bởi vì đây là công Pháp tính mệnh song tu, vừa tu tính vừa luyện mệnh, nên mặc dù tôi tu luyện không phải vì cầu chữa bệnh, nhưng thân thể vẫn được tịnh hóa, bệnh tật cứ lần lượt khỏi hết lúc nào không hay.
Trước đây, khi còn ở chùa, cứ vài hôm tôi lại phải lên phòng y tế (chùa lớn có phòng y tế riêng). Đi khám thì bác sĩ bảo cơ thể này suy nhược lâu năm, cộng thêm chứng viêm xoang hành hạ, những cơn đau tim bất thường, viêm gan, viêm phế quản, viêm dạ dày, rối loạn tiền đình, rối loạn thần kinh thực vật,… Nhưng kỳ diệu thay, kể từ khi đọc sách và tập 5 bài công pháp của Pháp Luân Đại Pháp (còn gọi là Pháp Luân Công), sức khỏe của tôi đã hoàn toàn thay đổi.
Trước đây, mỗi mùa đông tôi đều phải vật lộn với chứng viêm xoang và viêm phế quản. Lúc còn ở với mẹ, nhiều đêm đau xoang không ngủ được, thở khò khè như mèo, mẹ đều khóc vì thương tôi, cứ ai mách cho cách gì mẹ cũng đều làm, từ dân gian đến tây y, nhưng vô ích. Vậy mà sau khi tu luyện, những bệnh này đã khỏi hẳn. Tôi cứ như biến thành một người khác, khỏe mạnh và tràn đầy sức sống.
Vì Pháp Luân Đại Pháp là môn tu luyện giữa đời thường, nên tôi cũng kết hôn và có con. Chồng tôi cũng là một học viên Đại Pháp lâu năm. Nhìn tôi bình thường như bao người, khiến cha mẹ tôi rất vui; thấy những chuyển biến của tôi, mẹ tôi cũng đã bước vào tu luyện.
Tu luyện giữa đời thường
Trước đây, tôi cho rằng thoát ly thế tục là thanh cao. Cái tâm buông bỏ hồng trần là thức tỉnh. Nhưng tới bây giờ tôi mới nhận ra rằng, cái tâm của mình năm xưa chỉ là “chán cõi hồng trần”, chứ chưa thực sự là buông bỏ.
Tôi tuy chưa từng vào thâm sơn cùng cốc, nhưng cũng từng bỏ lại tất cả tương lai tuổi trẻ, để tìm cầu đạo Pháp. Tôi thấy rằng, tu giữa đời thường mới là khó nhất, nói là khó nhất nhưng lại là vững chắc nhất.
Một người có thể buông bỏ từ sâu trong tâm, có danh mà không chấp vào danh, có tiền không chấp vào tiền, sống giữa danh lợi tình – tiền, mà thân tâm thản đãng, không lo được mất, tôi nghĩ đó mới là buông bỏ một cách thực sự.
Năm xưa, khi tôi đi tu, thân xác tuy khổ, nhưng tự do tự tại, nói là buông bỏ, nhưng thực chất, đâu có nhiều thứ vướng bận để mà buông bỏ? Nhưng khi vẫn phải đối mặt với cuộc sống thực tại, trách nhiệm đầy trên vai, trước có cha mẹ già, sau lưng còn con nhỏ mà vẫn phải tu, phải giữ vững tâm tính, điều đó thực rất khó.
Phải mưu sinh, khó lòng dứt được danh lợi. Có gia đình, dễ chìm sâu trong tình cảm. 11 năm qua, tôi cũng bao phen ngụp lặn giữa danh – lợi – tình. Trước đây, tôi tưởng mình đã xem nhẹ danh lợi, bạc tiền. Nhưng kỳ thực ở tuổi ấy, nào có danh lợi bạc tiền đâu mà buông bỏ? Tới khi mưu sinh vất vả, mới thấy vẫn còn ham từng cái lợi nhỏ.
Lúc đi tu, tưởng mình chẳng còn tơ tưởng chuyện gái trai, nhưng thực ra là ít tiếp xúc với nam giới, lại chẳng gặp được người như ý, nên tâm tình nguội lạnh. Tới khi gặp được tri kỷ, vẫn chìm đắm, bi lụy trong tình cảm như ai.
Có con cái rồi lại sinh tâm ích kỷ, vì muốn bảo vệ chở che cho tổ ấm bé nhỏ của mình mà tâm tình ngày càng hẹp hòi.
Nói tới đây, có lẽ nhiều người sẽ thắc mắc, vậy thì 11 năm qua tôi tu cái gì?
Thực ra, theo lời Sư Phụ Lý dạy, tôi hiểu rằng, tu luyện chính là lần lần vứt bỏ hết thảy các tâm chấp trước. Nhưng trước hết phải nhìn thấy nó, thừa nhận nó, rồi mới có thể tu bỏ nó. Vì trước đây, ngay cả nhận diện nó tôi còn không biết, thừa nhận nó lại càng không có dũng khí. Suốt hơn chục năm qua, là quá trình tôi không ngừng bóc tách từng cái tâm, hướng nội tìm thiếu sót, rèn luyện bản thân. Chỉ khi chiểu theo tiêu chuẩn Chân – Thiện – Nhẫn, chiểu theo các Pháp lý cao hơn để yêu cầu bản thân, tìm ở bản thân, tôi mới thực sự phân biệt được thế nào là đúng – sai, thiện – ác. Chỉ sau khi tu luyện Đại Pháp, tôi mới nhận ra rằng, tôi không phải là một người tốt và tôi cần phải không ngừng tu sửa.

Có người hỏi tôi có hạnh phúc vì những lựa chọn của mình không? Tôi có thể tự tin trả lời rằng: “Tôi rất hạnh phúc!”
Đời người sẽ luôn đầy những thử thách, cũng chẳng thiếu những chông gai, nhưng nếu trong tâm có Pháp, thì chính là tại hoàn cảnh khó khăn ấy, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được hạnh phúc, vẫn giữ vững được thiện lương, giống cái cây vẫn sừng sững trước giông gió, trong bão tố vẫn vươn mình che chở những chồi non.
Là bởi thản đãng mà tự an ổn, là vì vững vàng, thiện lương nên luôn thấy hạnh phúc. Người tu giữa đời thường chính là thân nhập hồng trần nhưng tâm chẳng dính bụi.
Pháp lý của Pháp Luân Đại Pháp như kim chỉ nam khiến tôi không còn bị mê mờ, lạc lối giữa thế gian. Nhìn lại hành trình 11 năm tu luyện, nhận ân huệ lớn lao từ Đại Pháp, tôi như được thoát thai hoán cốt, thân thể khỏe mạnh, nội tâm bình an. Từ một sinh mệnh đầy đau khổ, mất phương hướng, rơi vào tuyệt lộ, trở thành một sinh mệnh hạnh phúc, thực sự hạnh phúc. Thật vậy, người tu luyện Chân Thiện Nhẫn là hạnh phúc nhất!
Nếu bạn muốn giao lưu, chia sẻ về Pháp Luân Đại Pháp thì có thể liên lạc với tôi qua số điện thoại 0965 976 019.
Nếu bạn quan tâm có thể vào trang web Falundafa.org, liên hệ với tình nguyện viên ở mục trang chủ của Pháp luân Đại Pháp là https://vi.falundafa.org hoặc https://hocphapluancong.com/ để được hướng dẫn chi tiết hơn về môn tu luyện này.