Đức Phật giảng nhân quả: Nguyền rủa tăng nhân sẽ chịu báo ứng nặng nề
Một người sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng bị què từ nhỏ, sau khi phát tâm muốn xuất gia thì liền khỏi bệnh, Đức Phật giảng nhân quả đằng sau.
- Hoa ưu đàm nở và dấu hiệu đức Phật xuất hiện tại nhân gian
- Cả dòng họ bị thảm sát, vì sao Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ra tay cứu?
Sinh ra trong gia đình giàu có nhưng chân lại bị dị dạng
Có một thí chủ sống rất hạnh phúc với vợ, sau này sinh được một đứa con có tướng mạo trang nghiêm, nhưng đôi chân lại bị dị dạng.
Tuy nhiên, từ khi đứa trẻ này chào đời, mọi việc trong gia đình vị thí chủ đều rất cát tường, viên mãn, nên vị thí chủ vẫn rất vui vẻ tổ chức lễ hạ sinh cho đứa bé và đặt tên là “Bả Tử” (nghĩa là người què).
Sau khi Bả Tử lớn lên, gia đình nhà thí chủ ngày càng giàu có, dù ông có làm gì đi chăng nữa, chỉ cần nhắc đến tên “Bả Tử” thì mọi chuyện sẽ suôn sẻ thuận lợi. Sau khi người dân thành Xá Vệ biết chuyện, họ cũng làm theo, dù làm gì thì họ cũng nhắc đến tên đứa trẻ trước, kết quả là thành công mỹ mãn. Ngoài ra, Bả Tử còn có học vấn uyên bác, nên rất nổi tiếng ở thành Xá Vệ.
Một lần, khi đang đi xe ngựa cùng người thân và bạn bè, anh nhìn thấy từ xa một đám đông đang đến vườn Chi Đà.
Bả Tử hỏi người thân và bạn bè: “Những người đó đang làm gì ở vườn Chi Đà?”
Người bạn của anh nói với anh: “Họ đang đi lễ bái Phật Thích Ca Mâu Ni.”
Bả Tử tò mò hỏi: “Phật Thích Ca Mâu Ni là ai?”
“Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là thái tử của vương quốc Ca Tỳ La Vệ, có một thầy bói đã tiên đoán rằng: Nếu thái tử xuất gia thì sẽ chứng được Phật quả; nếu ở nhà thì sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương. Sau đó, thái tử xuất gia và chứng được Phật quả, mọi người đều cảm thấy vô cùng vui mừng và kính trọng thái tử”. Người bạn nói.
Sau khi nghe những lời này, Bả Tử đi đến vườn Chi Đà cùng với thân nhân và bạn bè. Lúc này, Đức Phật đang giảng Phật Pháp cho nhiều người đến nghe. Từ xa, Bả Tử nhìn thấy 32 tướng tốt của Đức Thế Tôn, lập tức cảm thấy vô cùng vui mừng, anh xuống xe ngựa, cúi đầu sát đất làm lễ và bái lạy dưới chân Đức Phật.
Đức Thế Tôn quan sát căn cơ của anh và truyền thụ cho anh Pháp tương ứng. Anh lập tức có thu hoạch và nghĩ thầm: “Nếu mình không bị tàn tật, mình có thể theo Phật Đà xuất gia”.
Khi Bả Tử phát tâm xuất gia, chân què của anh đã trở lại bình thường. Không kiềm được niềm vui trong lòng, trước mặt Đức Phật anh xin được xuất gia, Đức Phật đã đồng ý và dùng “Tỳ kheo Thiện lai” để truyền thụ cho anh Tỳ kheo giới. Anh tinh tấn tu trì và chẳng bao lâu sau anh đã diệt trừ được phiền não của luân hồi trong tam giới và đạt được quả vị A-la-hán.
Phật giảng về nhân quả, Ưu bà tắc nguyền rủa tăng nhân
Lúc này, các Tỳ kheo hỏi Thế Tôn: “Nhân duyên gì mà vị Tỳ kheo này sinh ra ở gia đình giàu có mà lại bị què? Tại sao sau khi anh sinh ra thì nguyện vọng của mọi người đều được viên mãn tốt đẹp? Nguyên nhân nào vào thời điểm anh phát tâm xuất gia đã khiến cho tình trạng bị què của anh trở lại bình thường, đồng thời, có thể tu hành theo lời dạy của Đức Phật và đắc quả A-la-hán? Mong Đức Phật có thể giảng thuyết cho chúng con.”
Đức Phật bèn giảng cho mọi người: Này các Tỳ kheo! Đó là do nguyện lực của anh ta ở đời trước đã chín muồi. Khi Phật Ca Diếp xuất thế, có một vị Ưu bà tắc (cư sĩ tại gia) ở vườn Lộc Dã, Ấn Độ, là người thông thái, hiểu biết sâu rộng, vô cùng tài giỏi. Mọi người tôn kính và cung dưỡng anh giống như Thượng sư.
Một lần, Đức Phật Ca Diếp đến vườn Lộc Dã thuyết pháp, vị Ưu bà tắc này đã dẫn theo rất nhiều tín đồ đến trước Đức Phật để nghe pháp. Sau đó Đức Phật Ca Diếp đi nhiều nơi khác, còn vị Ưu bà tắc này vẫn ở vườn Lộ Dã và giảng pháp cho mọi người, được rất nhiều người cung kính, mọi người lấy tiền tài cúng dường cho anh, anh mang toàn bộ vào trong chùa cúng dường cho tăng chúng, tăng chúng đối với anh cũng rất tốt.
Một lần khi đến chùa, tình cờ gặp chúng tăng đang tụng giới. Cư sĩ không được phép nghe khi chúng tăng tụng giới. Vì vậy chấp sự đã mời Ưu bà tắc và tất cả cư sĩ ra khỏi phòng kinh.
Một người không hiểu chuyện đã nói với Ưu bà tắc: “Chúng tôi bị đuổi ra ngoài cũng chẳng sao cả! Tuy nhiên, một vị đại cư sĩ như ngài, đã làm nhiều công đức to lớn cho chùa, thế mà cũng bị đuổi ra ngoài!”
Nghe những lời thị phi này, anh tức giận, khởi lên lòng hận thù, và nguyền rủa tăng nhân: “Ngày nào các ông cũng ngồi trên pháp tòa như một người què. Tôi đã cúng dường nhiều như vậy, nhưng hôm nay lại bị đuổi ra khỏi phòng kinh trước mặt rất nhiều người, cũng không nể mặt tôi…”
Ưu bà tắc sám hối sau khi mắng các tăng nhân
Chúng tăng biết rằng, anh đã tạo ra rất nhiều ác nghiệp do chửi rủa các tăng nhân, và muốn cứu anh, nên họ khuyên anh: “Anh nói như vậy là không đúng. Dù thế nào anh cũng là một cư sĩ, mà lại nguyền rủa chúng tăng một cách vô lý, sẽ dẫn đến ác báo trong tương lai.” Bản thân anh cũng đã nghĩ thông suốt và thành tâm phát nguyện sám hối.
Cuối cùng, trước lúc lâm chung, anh phát nguyện: “Mong rằng với công đức phục vụ chư tăng và giữ giới cả đời, đời đời kiếp kiếp con sẽ được sinh vào một gia đình giàu có. Khi mọi người nhắc đến tên con, mọi việc sẽ cát tường và thuận lợi. Con mong rằng ác nghiệp nguyền rủa chư tăng của con sẽ không chín muồi. Một khi đã chín muồi, con hy vọng nó sẽ tiêu tan ngay khi con phát tâm xuất gia”.
Này các Tỳ kheo! Các con nghĩ sao? Ưu Bà Tắc lúc ấy chính là người què bây giờ, anh đã nhận ác báo là làm người què trong 500 kiếp, và đây là kiếp cuối cùng.
Vì nguyện lực kiếp trước của anh đã chín muồi, nên anh sinh ra trong một gia đình giàu có, khi người ta nhắc đến tên anh, mọi việc diễn ra thuận lợi và tốt lành, điều đó cũng khiến ta vui mừng, anh đã xuất gia theo lời dạy của ta và đạt được quả vị A-la-hán.
Sau khi nghe điều này, các Tỳ kheo đều khởi tín tâm to lớn, vui mừng tiếp nhận, cúi đầu sát đất làm lễ với Đức Thế Tôn.
Theo Vision Times